Khái niệm chung
Kinh tế tuần hoàn (KTTH) là khái niệm được dùng để chỉ mô hình kinh tế mới dựa trên nguyên lý cơ bản “mọi thứ đều là đầu vào đối với thứ khác”, hoàn toàn không giống với cách nhìn của nền kinh tế tuyến tính truyền thống. Theo đó, nền KTTH là một hệ thống công nghiệp phục hồi hoặc tái tạo theo ý định và thiết kế. Nó chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo, loại bỏ việc sử dụng các hóa chất độc hại và chất thải gây suy giảm khả năng tái sử dụng thông qua thiết kế ưu việt của vật liệu, sản phẩm, hệ thống và trong phạm vi này, là các mô hình kinh doanh. Hay nói một cách đơn giản Kinh tế tuần hoàn là biến rác thải đầu ra của ngành này thành nguồn tài nguyên đầu vào của ngành khác hay tuần hoàn trong nội tại bản thân của một doanh nghiệp. Kinh tế tuần hoàn góp phần gia tăng giá trị cho doanh nghiệp, giảm khai thác tài nguyên, giảm chi phí xử lý chất thải, giảm thiểu ô nhiễm môi trường…
Tại Việt Nam, khái niệm liên quan đến mô hình KTTH đã có từ cách đây hơn 20 năm với những định danh khác. Đó là mô hình VAT (Vườn – Ao – Chuồng), một mô hình chúng ta đã áp dụng khá thành công. Ngoài ra, các khái niệm “khu công nghiệp sinh thái – ecological industrial zone”, “sản xuất sạch hơn – Cleaner production”, “Không phát thải – zero emission”, tái chế, tái sử dụng, tái sản xuất – một phần của KTTH – cũng được đề cập nhiều trong nhiều năm qua. Đặc biệt, nhưng khái niệm liên quan đến KTTH đã được thể hiện qua các chính sách của Đảng và nhà nước liên quan đến công tác bảo vệ môi trường và được các Trường/Viện nghiên cứu triển khai nghiên cứu, áp dụng. Việc chuyển đổi sang nền KTTH là một cơ hội lớn để phát triển bền vững, không chỉ đạt mục tiêu kinh tế-xã hội, môi trường, mà còn để ứng phó với biến đổi khí hậu...
Chính sách, pháp luật phát triển KTTH
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội qua các giai đoạn, Đảng ta đều có những chủ trương gắn với công tác bảo vệ môi trường. Quan điểm, khía cạnh liên quan đến KTTH như kinh tế xanh, tăng trưởng xanh, phát triển năng lượng tái tạo, tái chế phế thải, phát triển bền vững, gắn tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường luôn được khẳng định đề cập trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng. Nhiều văn bản luật và pháp luật có những quy định liên quan đến KTTH đã được ban hành như như Luật Bảo vệ môi trường (2005, 2014, 2020), Luật Hóa chất (2007), Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa (2007); Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (2010); Luật Khoáng sản (2010); Luật Tài nguyên nước (2012); Luật An toàn thực phẩm (2012); Luật Đất đai (2013); Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật (2013); Luật Phòng, chống thiên tai (2013); Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo (2015); Luật Lâm nghiệp (2017)...; Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25/22/2015); Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn năm 2050 (Quyết định số 491/ QĐ-TTg ngày 07/5/2018); Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (Quyết định số 889/QĐ-TTg ngày 24/6/2020); Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn 2050 (Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021); Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 20/8/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý, tái sử dụng, tái chế, xử lý và giảm thiểu chất thải nhựa; Chiến lược bảo vệ môi trường đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 450/QĐ-TTg ngày 13/4/2022)...
Tuy nhiên, quan điểm về KTTH lần đầu tiên được nhấn mạnh trong Nghị quyết Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ XIII (2021) định hướng mục tiêu phát triển bền vững trong đó có nội dung “khuyến khích phát triển mô hình KTTH để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất”... Việc xây dựng nền KTTH, phát triển bền vững đã được Đảng xác định là một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, trở thành quan điểm xuyên suốt trong chủ trương, chính sách của Đảng để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Áp dụng kinh tế tuần hoàn được kỳ vọng mang lại những lợi ích cả về kinh tế, môi trường và xã hội, tạo ra cơ hội tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và giảm tác động môi trường, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, để xây dựng được nền KTTH, cần sự vào cuộc của toàn xã hội; trong đó vai trò của nhà nước và của các doanh nghiệp mang tính nòng cốt. Cụ thể:
Về phía Nhà nước: Việt Nam đang nỗ lực phát triền kinh tế theo hướng bền vững, giảm thiểu những tác động xấu đến môi trường và nền kinh tế tuần hoàn là mô hình được quan tâm, được định hướng phát triển. Ngày 7/6/2022 tại Quyết định số 687/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Phát triển KTTH ở Việt Nam. Theo đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm dự thảo Nghị định về cơ chế thử nghiệm (sandbox) phát triển kinh tế tuần hoàn nhằm tạo ra khung chính sách, cơ chế hỗ trợ, đem lại sự yên tâm cho nhà đầu tư và doanh nghiệp thử nghiệm những ý tưởng, sáng kiến về kinh tế tuần hoàn. Dự thảo có 4 lĩnh vực của nền kinh tế được đề xuất áp dụng cơ chế thử nghiệm là: nông lâm nghiệp và thủy sản, công nghiệp, năng lượng tái tạo và vật liệu xây dựng. Để thực hiện cơ chế thử nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn này có 6 nhóm chính sách, đó là: khu công nghiệp, khu kinh tế; phân loại xanh; tư vấn công nghệ, chuyển giao công nghệ; tín dụng xanh, trái phiếu xanh; phát triển nguồn nhân lực và chính sách đất đai.
Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP Quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn, trong đó có lộ trình mua, bán và chuyển giao tín chỉ các-bon, nhằm thực hiện các cam kết quốc tế. Theo đó, Việt Nam sẽ phát triển một thị trường các-bon bắt buộc vào năm 2027, bao gồm các hệ thống mua, bán, trao đổi và chuyển giao tín chỉ các-bon cũng như hạn ngạch cho các doanh nghiệp cắt giảm khí thải. Trong bối cảnh đó, kinh tế tuần hoàn là nền tảng, tạo ra chìa khóa vàng giúp Việt Nam đạt mục tiêu Net Zero như đã cam kết, cũng như góp phần chống lại biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường để phát triển bền vững...
Về phía doanh nghiệp: Thực tế trong những năm vừa qua đã có nhiều doanh nghiệp đã đưa mô hình KTTH áp dụng thành công vào sản xuất như: “mô hình VAC (vườn - ao - chuồng) và các mô hình khác (như rừng - vườn - ao - chuồng); mô hình 3F (thức ăn – Feed; trang trại – Farm; thực phẩm – Food); mô hình khí năng lượng tái tạo (lên men sinh khí biogas và phân bón hữu cơ/sinh khí metan tinh khiết cao chuyển đổi điện năng thành khí nhiên liệu); lò đốt rác phát điện của Tập đoàn T-Tech; một số mô hình Sản xuất sạch hơn như ứng dụng công nghệ sinh học tiên tiến phát điện và sử dụng bùn thải sau khi lên men yếm khí để sản xuất phân bón hữu cơ phát triển nông nghiệp sạch ở Đăklăk,…”. Tuy nhiên, việc chuyển đổi từ mô hình kinh tế nâu sang kinh tế xanh, từ tuyến tính sang KTTH, kinh tế cacbon thấp hướng tới phát thải ròng bằng 0 tại Việt Nam bước đầu sẽ gặp khó khăn do nước ta còn thiếu các cơ chế chính sách thúc đẩy và nguồn lực, công nghệ tái chế, tái sử dụng còn hạn chế. Trong điều kiện đó, doanh nghiệp cần có lộ trình áp dụng các tiêu chí của mô hình KTTH vào quá trình sản xuất. Cùng với đó, việc nâng cao nhận thức của cộng đồng xã hội về mô hình KTTH để hình thành thói quen trong tiêu dùng xanh, thay đổi hành vi mua sắm hướng đến việc bảo vệ môi trường sẽ góp phần thực hiện quá trình chuyển đổi xanh nhanh và hiệu quả, hướng đến kinh tế bền vững. Mặt khác, để đổi mới sáng tạo và phát triển sản phẩm, các doanh nghiệp phải đầu tư, áp dụng và thực hiện các hoạt động ứng dụng công nghệ vào quá trình sản xuất, áp dụng công nghệ sạch, thân thiện với môi trường và loại bỏ những công nghệ cũ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường.
Giải pháp phát triển KTTH ở Việt Nam
Để thúc đẩy phát triển KTTH nhằm góp phần phát triển bền vững, trong thời gian tới, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Trước hết, cần sớm thể chế hóa kinh tế tuần hoàn trong hệ thống pháp luật. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên ở khu vực ASEAN đưa kinh tế tuần hoàn vào Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và các văn bản hướng dẫn dưới luật: Điều 142 của Luật Bảo vệ môi trường đã đưa ra quy định về kinh tế tuần hoàn; Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, hướng dẫn chi tiết về tiêu chí, cách thức áp dụng, phân công trách nhiệm và cơ chế khuyến khích áp dụng kinh tế tuần hoàn. Trong đó, quy định chi tiết hơn về tiêu chí; những quy định đối với chủ dự án đầu tư, cơ sở, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp, chủ dự án đầu tư khu đô thị, khu dân cư tập trung trong việc thực hiện để đạt được tiêu chí kinh tế tuần hoàn. Xác định 3 trụ cột đại diện cho 3 nhóm tiêu chí chung về KTTH gồm: Nhóm thứ nhất là giảm khai thác, sử dụng tài nguyên không tái tạo, tài nguyên nước; tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên, nguyên liệu thô, vật liệu; tiết kiệm năng lượng; Nhóm thứ hai là kéo dài thời gian sử dụng vật liệu, thiết bị, sản phẩm, hàng hóa, các linh kiện, cấu kiện; Nhóm thứ ba, hạn chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường, bao gồm: giảm chất thải rắn, nước thải, khí thải; giảm sử dụng hóa chất độc hại; tái chế chất thải, thu hồi năng lượng; giảm sản phẩm sử dụng một lần; mua sắm xanh. Điều 140 của Nghị định quy định, Nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển KTTH đối với các hoạt nghiên cứu khoa học, phát triển ứng dụng, chuyển giao công nghệ và sản xuất thiết bị, đào tạo nhân lực để thực hiện kinh tế tuần hoàn; cung cấp nền tảng chia sẻ thông tin, dữ liệu về kinh tế tuần hoàn... Đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào hiệu suất sử dụng các yếu tố đầu vào vốn và lao động, tăng trưởng kinh tế bền vững gắn với sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả.
Thứ hai, Cần phát huy vai trò kiến tạo của các bộ, ngành và chính quyền các địa phương theo tinh thần ở những nội dung cơ bản sau: (1) Thể chế hóa KTTH thông qua hệ thống pháp luật, chính sách, thủ tục hành chính bảo đảm tính thống nhất, logic giữa hệ thống các văn bản để thực hiện KTTH một cách toàn diện, có hệ thống, có tính pháp lý cao và đồng bộ với các chính sách về thuế, phí, khuyến khích, ưu đãi về cơ chế, tài chính, hỗ trợ về đất đai, nhất là các quy định đã được nêu trong Luật Bảo vệ môi trường và pháp luật khác có liên quan. (2) Xây dựng hướng dẫn kỹ thuật về việc áp dụng KTTH trong các ngành sản xuất, kinh doanh; lộ trình để thực hiện KTTH từ vi mô đến vĩ mô, trong đó, doanh nghiệp là động lực trung tâm. (3) Xây dựng các hướng dẫn cụ thể về KTTH đối với các bên liên quan về các loại hình, tính chất, quy mô doanh nghiệp, lộ trình, công cụ hỗ trợ, cách thức quản lý, thực hiện xây dựng chiến lược kinh doanh bền vững đối với từng lĩnh vực… (4) Quy định rõ trách nhiệm cụ thể của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp nhà sản xuất, nhà phân phối trong việc thu hồi, phân loại và tái chế hoặc chi trả chi phí xử lý các sản phẩm thải bỏ do doanh nghiệp tạo ra dựa trên số lượng sản phẩm bán ra trên thị trường; tăng cường nghiên cứu, chuyển giao công nghệ tái chế, quản lý dự án theo vòng đời sản phẩm. (5) Tăng cường đối thoại công - tư về phát triển KTTH, trên cơ sở phát huy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu, vướng mắc của doanh nghiệp, từ đó có biện pháp tháo gỡ, hỗ trợ phù hợp hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét, tháo gỡ, hỗ trợ ở mức độ phù hợp. (6) Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển KTTH thuộc các lĩnh vực, địa bàn cụ thể thuộc thẩm quyền; tăng cường công tác truyền thông nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người dân, doanh nghiệp hiểu được các lợi ích về KTTH… Tập trung tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ các cấp, các ngành; người dân về định hướng chính sách, quy định pháp luật, các chiến lược, chính sách và đề án phát triển ở các cấp, các ngành… về KTTH; ý thức của người dân thay đổi tư duy về tiêu dùng theo hướng sử dụng các sản phẩm hàng hóa thân thiện với môi trường, về việc phân loại CTRSH tại nguồn. (7) Thúc đẩy hợp tác, liên kết với các thành phần kinh tế, các nhà tài trợ nước ngoài, các tổ chức quốc tế để tìm kiếm cơ hội tiếp cận tri thức, kỹ năng và nguồn lực phát triển kinh tế tuần hoàn thông qua các dự án thử nghiệm cụ thể về KTTH, các dự án về công nghệ, dịch vụ (công nghệ thông tin, môi trường...) thân thiện với KTTH; khuyến khích các sáng kiến, mô hình đã, đang và sẽ áp dụng các giải pháp thực hiện KTTH.
Thứ ba, có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp tham gia hoạch định chiến lược sản xuất, kinh doanh một cách bền vững, ứng dụng các mô hình KTTH, sản xuất, kinh doanh gắn liền với bảo vệ môi trường.
Thứ tư, cần xây dựng cơ sở dữ liệu về KTTH gắn với chuyển đổi kinh tế số và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thúc đẩy hợp tác, liên kết giữa các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội trong việc phát triển KTTH ở Việt Nam.
Thứ năm, tăng cường tuyên truyền để người dân thay đổi tư duy về tiêu dùng theo hướng sử dụng các sản phẩm hàng hóa thân thiện với môi trường, các sản phẩm dán nhãn CE. Nâng cao ý thức về phân loại rác thải tại nguồn nhằm giảm chi phí trong việc sử dụng và tái chế rác thải.
Thứ sáu, tăng cường giáo dục - đào tạo ở các cấp học những kiến thức về KTTH nhằm cung cấp những tri thức cơ bản về KTTH; đồng thời, đào tạo nguồn nhân lực đủ khả năng vận hành mô hình KTTH gắn với đổi mới sáng tạo và sử dụng công nghệ cao./.
Ths. Bùi Xuân Lam