Nhìn lại thực tế
Do phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc kéo dài và tàn khốc, cùng với việc chậm đổi mới cơ chế, chính sách cho phù hợp trong thời kỳ đầu thống nhất đất nước, nên tình trạng nghèo đói đã từng là một trong những vấn đề xã hội nghiêm trọng của Việt Nam trong những năm 70, 80 của thế kỷ XX.
Bước vào thời kỳ đổi mới (1986) khi mà số lượng hộ nghèo chiếm hơn nửa dân số. Là một nước sản xuất nông nghiệp nhưng hằng năm, Việt Nam phải nhập khẩu một lượng lớn lương thực để cứu đói. Bên cạnh những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế, xã hội là vấn đề phân hóa giàu nghèo càng trở nên rõ ràng hơn từ
Khi Việt Nam thực hiện chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa, vận hành theo cơ chế thị trường, một mặt tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng mặt khác sự phân hóa giàu nghèo lại bộc lộ rõ hơn. Cũng từ đó, một số vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh, đòi hỏi phải có những chính sách mới cho phù hợp nhằm vừa đảm bảo kinh tế phát triển, vừa giữ được ổn định và công bằng xã hội.
Từ thực tiễn đó, nên ngay từ thập niên 90 thế kỷ XX, chương trình trụ cột của công cuộc giảm nghèo là Chương trình 135 đã được ban hành (ngày 31-7-1998) về Phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa (gọi tắt là Chương trình 135). Chương trình này hướng đến các mục tiêu tổng quát: “Nâng cao nhanh đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa; tạo điều kiện để đưa nông thôn các vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, hòa nhập vào sự phát triển chung của cả nước; góp phần bảo đảm trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc phòng”.
Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững thường được tổ chức dưới dạng cho vay vốn ưu đãi về lãi suất, hỗ trợ tiêu dùng, hỗ trợ thu nhập, hỗ trợ đất sản xuất, nhà ở, v.v… Hoặc các dự án hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, dạy nghề, tạo công ăn việc làm cho những người có hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt là những người ở vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn, vùng hải đảo, vùng kinh tế khó khăn và đặc biệt khó khăn. Để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xây dựng và tổ chức thực thi hành hàng loạt chủ trương, chính sách hỗ trợ khác nhau.
Những kết quả quan trọng
Trong giai đoạn đầu, Chương trình 135 được triển khai trên 1.000 xã nghèo nhất cả nước và sau đó mở rộng ra 2.362 xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu với 5 nhiệm vụ trọng tâm là: Xây dựng kết cấu hạ tầng; trung tâm cụm xã; đào tạo cán bộ; quy hoạch dân cư; phát triển sản xuất. Tổng nguồn lực Chính phủ đầu tư cho Chương trình giai đoạn này là 6.795,7 tỷ đồng. Kết quả đã xây dựng được 20.026 công trình hạ tầng; hoàn thành, đưa vào sử dụng 300 trung tâm cụm xã; hoàn thành trên 50.000km đường các loại; 96% xã có đường ô tô đến trung tâm xã. Cả nước có 671 xã đặc biệt khó khăn hoàn thành cơ bản mục tiêu Chương trình đề ra.
Phát huy những kết quả ban đầu, Chương trình 135 tiếp tục triển khai thực hiện tại 1.946 xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu và 3.274 thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số, miền núi với 4 nhiệm vụ chính là: Hỗ trợ phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ sản xuất của đồng bào các dân tộc; phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn đặc biệt khó khăn; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở, nâng cao trình độ quản lý hành chính và kinh tế, đào tạo nâng cao năng lực cộng đồng; hỗ trợ các dịch vụ, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, trợ giúp pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật. Kết quả chương trình đã hỗ trợ 14.000 tỷ đồng cho các địa phương; xây dựng 4.125 mô hình phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp; xây dựng trên 12.000 dự án đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ cơ sở.
Theo Ngân hàng thế giới, năm 1993, tỷ lệ hộ đói nghèo của Việt Nam chiếm hơn 58%, nhưng với quyết tâm của cả hệ thống chính trị, cùng với sự đồng hành của toàn xã hội, đến cuối năm 1997, cả nước còn khoảng 2,7 triệu hộ đói nghèo, chiếm 17,4% tổng số hộ. Tỷ lệ hộ nghèo tiếp tục giảm từ 22% năm 2005 xuống 9,45% năm 2010 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010); từ 14,2% năm 2010 xuống 9,6% năm 2012 (chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015), tương ứng với khoảng 2,1 triệu hộ nghèo... Đến năm 2006, Việt Nam đã hoàn thành “Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs)” về xóa đói, giảm nghèo, về đích trước gần 10 năm so với thời hạn (thời hạn là năm 2015), được quốc tế đánh giá là hình mẫu giảm nghèo hiệu quả. Tại Hội nghị cấp cao thế giới xem xét tiến trình thực hiện các Mục tiêu MDGs năm 2015, Việt Nam và Ghana được Liên hợp quốc đánh giá là những “ngôi sao sáng” trong số các nước đạt tiến bộ lớn trên lộ trình thực hiện các MDGs. Việt Nam xếp thứ 27 trong số 101 nước đang phát triển xét về năng lực xóa đói, giảm nghèo.
Tiếp tục triển khai Chương trình 135 và được chia làm 2 giai đoạn, từ năm 2011-2015 và từ năm 2016 - 2020. Trong Giai đoạn 2011-2015, Chương trình tập trung vào 2 nhiệm vụ trọng tâm là hỗ trợ kết cấu hạ tầng và hỗ trợ phát triển sản xuất trên địa bàn 2.331 xã và 2.932 thôn, bản đặc biệt khó khăn. Tính cả viện trợ của các tổ chức nước ngoài, tổng nguồn kinh phí bố trí cho giai đoạn này lên tới 16.721 tỷ đồng. Sau 5 năm triển khai thực hiện, 98% trung tâm xã và 70% thôn đã có điện lưới quốc gia; 58,94% xã có hệ thống thủy lợi nhỏ, đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống. Từ năm 2016-2020, Chương trình 135 triển khai trên địa bàn 2.139 xã và 3.973 thôn, bản khó khăn, với 3 nội dung: hỗ trợ phát triển sản xuất; hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng; nâng cao năng lực cho cộng đồng và cán bộ cơ sở. Đã có gần 20.000 tỷ đồng được phân bổ cho các địa phương triển khai phát triển KT-XH.
Việc đẩy mạnh Chương trình 135 cùng với lồng ghép với các chương trình mục tiêu quốc gia khác như Chương trình 134 về hỗ trợ đất ở, nhà ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt; Nghị quyết 30a, Quyết định 167 về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở; các chương trình vay vốn ưu đãi, trợ cước trợ giá; các chương trình hỗ trợ về y tế, giáo dục v.v.. Các chương trình và chính sách này được bổ sung, mở rộng đối tượng và độ bao phủ, được triển khai thực hiện có tính kế thừa và liên tục, bổ sung các chính sách đặc thù qua từng giai đoạn đã tạo ra diện mạo mới cho các địa phương. Hiệu quả rõ nét nhất là đã tạo điều kiện cho các địa phương phát triển bền vững.
Từ năm 2016, Việt Nam đã trở thành một trong số những nước đi đầu ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong áp dụng phương pháp đo lường nghèo đa chiều để giảm nghèo ở tất cả các chiều cạnh. Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020, Việt Nam đã đạt mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo đa chiều bình quân cả nước là 1-1,5%/năm và riêng các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn giảm 4%/năm.
Trong giai đoạn từ năm 2015-2020, kết quả giảm nghèo tiếp tục đạt và vượt mục tiêu, chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ đề ra. Hộ nghèo giảm từ 9,88% năm 2015, xuống còn 2,75% năm 2020, trong 05 năm giảm bình quân 1,43%/năm (chỉ tiêu giảm 1-1,5%/năm); hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm bình quân 4%/năm (chỉ tiêu giảm 3-4%/năm); hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân 5,4%/năm (chỉ tiêu giảm 4%/năm). Theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2021-2025, tại thời điểm tháng 01-2022, cả nước có khoảng 16,6% hộ dân cư có thu nhập dưới mức sống tối thiểu; trong đó, hộ nghèo là 10,83%, hộ cận nghèo là 5,77%. Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững 2021-2025 tiếp tục đặt ra nhiệm vụ phải giảm tỷ lệ hộ nghèo với mức giảm từ 1,0 -1,5%/năm. Chương trình cũng đặt chỉ tiêu đến năm 2025 phải giảm 1/2 số hộ nghèo và hộ cận nghèo so với đầu kỳ; 100% các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo được hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội liên kết vùng, phục vụ dân sinh, sản xuất, thương mại, lưu thông hàng hóa và cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản.
Kết quả giảm nghèo bền vững trong những giai đoạn vừa qua gắn liền với thành tựu chung về đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Các chính sách kinh tế và xã hội của Việt Nam đã giúp đạt được những kết quả to lớn trong mục tiêu giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống cho hàng triệu người. Trong gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế tăng trưởng liên tục, trung bình khoảng 7%/năm; mức sống và điều kiện sống của người dân không ngừng nâng lên. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,6 tuổi năm 2019. Hiện, Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng internet, thuộc nhóm nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới; chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2019 đạt mức 0,704 (so với các nước có cùng trình độ phát triển thì nước ta thuộc nhóm nước có HDI cao), lần đầu tiên vào nhóm các nước phát triển con người cao và xếp thứ 117/189 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Theo Báo cáo Phát triển bền vững năm 2020, Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á duy nhất đạt được 05 mục tiêu hành động của Liên hợp quốc. Đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; các mặt chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được bảo đảm... Chăm sóc y tế cho người nghèo ngày càng thiết thực. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi đều được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Từ năm 2012, 100% người nghèo, người dân tộc thiểu số đã được cấp thẻ bảo hiểm y tế. Điều này vừa thể hiện quyết tâm chính trị, vừa thể hiện rõ bản chất của chế độ xã hội vì người dân. Người dân là mục tiêu, là động lực của phát triển. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn lấy “Việc phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động”.
Hạn chế cần khắc phục
Về mặt chủ trương, chính sách thì Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững đã tỏ rõ tính hợp lý, tính ưu việt. Tuy nhiên, quá trình tổ chức thực thi chính sách giảm nghèo bền vững thời gian qua, bên cạnh những kết quả đạt được rất đáng tự hào cũng còn một số hạn chế sau đây:
Một là, kết quả giảm nghèo của nước ta chưa thật sự bền vững. Ranh giới giữa nhóm đủ ăn, cận nghèo và nghèo còn quá mong manh. Điều này có nhiều lý do, song lý do chủ yếu nhất là có đến 54,9% hộ nông nghiệp chỉ có diện tích đất canh tác dưới 0,5 ha(17) - do diện tích quá nhỏ bé nên họ khó có điều kiện để thoát nghèo một cách bền vững. Thực tế này đòi hỏi phải có những giải pháp phát triển kinh tế - xã hội đồng bộ hướng tới việc chuyển dịch lao động nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ; thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ ruộng đất để chuyển lên quy mô sản xuất lớn. Ngoài ra, có nơi còn bị chi phối bởi bệnh thành tích nên triển khai các biện pháp giảm nghèo mang tính hình thức, đối phó.
Hai là, khâu tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo còn kém hiệu quả dẫn đến lãng phí nguồn lực. Lâu nay nguồn lực dành cho các Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững là rất lớn nhưng hiệu quả sử dụng chưa cao. Đơn cử như giai đoạn năm 2011-2020, triển khai thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27-12-2008 về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo với nguồn kinh phí đầu tư bình quân cho 1 huyện rất lớn (80% kinh phí từ Trung ương và 20% kinh phí của địa phương). Tuy nhiên đến năm 2019, chỉ có 08 huyện thoát nghèo, các huyện còn lại tiếp tục nằm lại trong danh sách 74 huyện nghèo nhất nước trong giai đoạn 2021-2025.
Ba là, việc xác định diện hộ nghèo cũng như việc cấp phát nguồn hỗ trợ cho hộ nghèo ở một số nơi không bảo đảm tính khách quan, dân chủ, dẫn đến tình trạng đối tượng không thuộc diện nghèo lại được thụ hưởng, còn đối tượng thực sự nghèo lại không có tên trong danh sách nghèo. Điều này đã và đang tạo ra sự bất công, khiến người nghèo mất niềm tin vào cán bộ.
Bốn là, cách thức thực hiện các biện pháp trợ giúp hộ nghèo ở một số địa phương vô hình trung tạo ra cho họ tâm lý ỷ lại Nhà nước, trông chờ vào sự cưu mang, giúp đỡ của xã hội. Lâu dần, họ tự đánh mất ý thức, khát vọng vượt khó, vươn lên trong cuộc sống.
Những giải pháp căn cơ
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định phải “Triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo đa chiều, bền vững, bảo đảm mức sống tối thiểu và các dịch vụ cơ bản... thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, miền, dân tộc”. Vấn đề đặt ra cho từng địa phương, đơn vị là cần tiếp tục phát huy tính ưu việt của chủ trương, chính sách và những kết quả đã đạt được; đặc biệt chú trọng tìm kiếm, lựa chọn những biện pháp giảm nghèo thích hợp nhất để khắc phục những hạn chế đang tồn tại. Giảm nghèo bền vững cũng luôn được Đảng, Nhà nước Việt Nam hết sức quan tâm và xác định là nhiệm vụ xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và là một trong những mục tiêu quan trọng góp phần phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
Với chủ trương nhất quán là khuyến khích làm giàu hợp pháp, đi liền với những chính sách xã hội hỗ trợ, giúp đỡ các tầng lớp yếu thế, đặc biệt là tầng lớp nghèo để họ vươn lên trong cuộc sống. Điều này thể hiện quan điểm phát triển đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Đại hội XIII đã khẳng định “Nhận thức đầy đủ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội”. Trong đó, chính sách giảm nghèo bền vững phải luôn đóng vai trò chính yếu.
Hiện theo Thông tin từ Báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2024 của Chính phủ cho biết đến hết tháng 10 năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn gần 2%. Đạt được kết quả đó là nỗ lực rất lớn của cả hệ thống chính trị. Nhưng nhiệm vụ của toàn xã hội, của Đảng và Nhà nước là phải tiếp tục giảm nghèo hơn nữa, nâng mức sống của nhân dân cao hơn, xã hội và đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn…
Năm 2024 và thời gian tiếp theo, các cấp, ngành, địa phương tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo bền vững theo hướng đa chiều, bao trùm, "không để ai bị bỏ lại phía sau", bảo đảm mức sống tối thiểu và các dịch vụ xã hội cơ bản; hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng sinh kế, từng bước nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống lâu dài cho hộ nghèo, hộ cận nghèo theo tinh thần Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 23/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến năm 2030.
Tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách giảm nghèo theo quy định. Đẩy nhanh tiến độ rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách giảm nghèo theo hướng tích hợp, đồng bộ, hiệu quả, gắn với thực hiện mục tiêu phát triển bền vững và bảo đảm mức sống tối thiểu tăng dần, tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân.
Sớm ban hành chính sách hỗ trợ có điều kiện, tăng cường tín dụng chính sách xã hội cho người nghèo, bảo trợ xã hội đối với hộ nghèo không có khả năng lao động.
Trong thời gian tới, cả nước đồng bộ chỉ đạo công tác đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững tại các địa phương; chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về kết quả thực hiện của địa phương, không để xảy ra tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, thất thoát, lãng phí, tham nhũng, tiêu cực; kiên định với mục tiêu khi triển khai thực hiện Chương trình là “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
ThS Phạm An Vinh