Đổi mới quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng tình hình mới

Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 và Nghị định số 154/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ được ban hành với các quy định cụ thể về quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật đã tạo điều kiện, cơ sở cho các bộ, ngành, địa phương đẩy nhanh việc xây dựng, ban hành VBQPPL, nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính kịp thời; quy định rõ trách nhiệm của cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp trong công tác xây dựng pháp luật.

Tuy nhiên, cho đến nay Luật năm 2015 và Luật Sửa đổi năm 2020 đã có những nội dung, quy định không còn phù hợp với tình hình thực tế và việc sửa đổi Luật là điều cần thiết… 

Những kết quả đạt được và một số hạn chế, bất cập cần được khắc phục

Văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) được định nghĩa tại Điều 2 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2020 (Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015), “là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này”. Hệ thống các văn bản QPPL được liệt kê tại Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Nhìn chung, sau hơn 8 năm thi hành Luật Ban hành VBQPPL, có thể thấy rằng các bộ, ngành, địa phương tuân thủ và thực hiện tương đối nghiêm quy trình xây dựng, ban hành các VBQPPL. Chất lượng VBQPPL do Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ trình và ban hành theo thẩm quyền ngày càng được nâng cao, nội dung bảo đảm tính hợp hiến, cơ bản bảo đảm tính hợp pháp, thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật; bảo đảm tính khả thi, đáp ứng yêu cầu thực tiễn; nhiều văn bản có tính đột phá về thể chế cho phát triển ngành, lĩnh vực, giải quyết được các khó khăn, vướng mắc, bất cập trên thực tiễn; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp; giúp đơn giản hóa thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp; thực hiện tốt các yêu cầu về bảo đảm an ninh, quốc phòng; các quy định ngày càng chặt chẽ, bảo đảm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. VBQPPL do chính quyền địa phương ban hành được soạn thảo, ban hành phù hợp với tình hình thực tế địa phương, tạo ra cơ chế thu hút các nguồn lực, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân địa phương. Công tác kiểm tra, rà soát VBQPPL được thực hiện thường xuyên, kịp thời xử lý văn bản, góp phần bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất của hệ thống pháp luật…

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều biến động, phát sinh nhiều vấn đề mới, đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải nâng cao năng lực nhận diện, phản ứng chính sách, nhanh chóng ban hành theo thẩm quyền hoặc đề xuất cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc ban hành mới VBQPPL nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Một số nội dung, quy định trong Luật năm 2015 và Luật Sửa đổi năm 2020 đã không còn phù hợp với yêu cầu xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với việc tăng cường thi hành pháp luật. Cụ thể, một số nguyên tắc, khái niệm trong xây dựng và thi hành VBQPPL chưa đầy đủ, chưa cụ thể; còn có nhiều hình thức với nhiều chủ thể có thẩm quyền ban hành VBQPPL; thời gian lập đề nghị xây dựng VBQPPL, đề xuất, lập đề nghị, dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm chưa hợp lý;…. Mặt khác, thực tế cho thấy, việc phát sinh những khó khăn, vướng mắc còn do: Một số quy định pháp luật chưa rõ ràng, chặt chẽ, chưa tạo được sự đồng bộ; hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước cồng kềnh, thường xuyên thay đổi; việc tồn tại nhiều hình thức văn bản do các cơ quan Trung ương ban hành tại các thời điểm khác nhau về cùng một vấn đề, một lĩnh vực dễ dẫn đến tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn; thêm vào đó là các Bộ, ngành chậm ban hành các VBQPPL để thay thế, bãi bỏ, văn bản có căn cứ pháp lý là văn bản đã hết hiệu lực thi hành làm cho công tác rà soát VBQPPL gặp nhiều khó khăn.

Vì vậy, việc xây dựng Luật Ban hành VBQPPL (sửa đổi) là cần thiết, không chỉ nhằm thể chế hóa các nội dung được nêu tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra, mà còn góp phần giải quyết, xử lý các quy định mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập. Đồng thời, Luật này sẽ sửa đổi toàn diện Luật năm 2015 và Luật Sửa đổi năm 2020, trong đó có bổ sung các quy định về điều kiện bảo đảm cho công tác xây dựng VBQPPL gắn với tổ chức thi hành VBQPPL; trách nhiệm của các chủ thể tham gia xây dựng và thi hành VBQPPL.

Ở một góc độ khác liên quan, trước bối cảnh mức độ phức tạp của hệ thống pháp luật ngày càng cao và nhu cầu sửa đổi, bổ sung nội dung văn bản ngày càng lớn, việc hợp nhất nội dung văn bản được sửa đổi, bổ sung và văn bản sửa đổi, bổ sung trở thành nhu cầu cấp thiết để đơn giản hóa hệ thống pháp luật, giúp hoạt động tra cứu, sử dụng pháp luật được nhanh chóng, thuận tiện hơn. Cũng từ nhu cầu thực tế đó, theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (đây là yêu cầu bắt buộc): “Văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung phải được hợp nhất với văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung” (khoản 1 Điều 168). Mục đích của hoạt động hợp nhất là nhằm góp phần bảo đảm hệ thống pháp luật đơn giản, rõ ràng, dễ sử dụng, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật.  Theo đó, tại khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012 (Pháp lệnh Hợp nhất) có định nghĩa hợp nhất văn bản QPPL là “việc đưa nội dung sửa đổi, bổ sung trong văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều của văn bản đã được ban hành trước đó vào văn bản được sửa đổi, bổ sung theo quy trình, kỹ thuật quy định tại Pháp lệnh này”.

Như vậy, việc ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP và Nghị định số 154/2020/NĐ-CP để đẩy nhanh tiến độ xây dựng, ban hành VBQPPL đồng thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của bộ, ngành, địa phương trong xây dựng, ban hành VBQPPL là rất cần thiết.

Sự cần thiết xây dựng Luật Ban hành VBQPPL (sửa đổi)

Để đáp ứng yêu cầu thực tế, Cơ quan chủ trì soạn thảo đề xuất 03 chính sách đề nghị xây dựng Luật Ban hành VBQPPL (sửa đổi) gồm: (1) Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, thể chế hóa kịp thời, đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật; bổ sung các nguyên tắc xây dựng và thi hành VBQPPL; giảm hình thức và xác định rõ cơ quan có thẩm quyền ban hành VBQPPL; (2) Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng VBQPPL; xác định rõ và tăng cường vai trò, thẩm quyền, trách nhiệm của các chủ thể trong xây dựng pháp luật; bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời phản ứng chính sách; (3) Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tổ chức thi hành VBQPPL, gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng với thi hành VBQPPL; tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý VBQPPL trái pháp luật; tăng cường nguồn lực cho công tác xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành VBQPPL.

Việc đổi mới quy trình xây dựng pháp luật phải đảm bảo tính chặt chẽ, nhưng có độ mở, độ linh hoạt nhất định để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; làm tốt từng khâu, đặt yêu cầu cao về chất lượng, bám sát và kịp thời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn kết hợp hiệu lực áp dụng trực tiếp. Mặt khác, cần nghiên cứu để đưa ra các quy định nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, tích cực gắn với vai trò, trách nhiệm của các chủ thể, đặc biệt là Chính phủ, nâng cao năng lực phản ứng chính sách, xử lý các vấn đề cấp bách phát sinh từ thực tiễn. Đồng thời nâng cao vai trò và trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong xây dựng, ban hành VBQPPL, nhất là trong việc soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất và tổ chức thi hành pháp luật. Tiếp tục phát huy, bảo đảm dân chủ trên cơ sở tăng cường thu hút sự tham gia rộng rãi của chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, người dân, doanh nghiệp trong xây dựng pháp luật; đảm bảo tính tương thích với điều ước quốc tế, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng pháp luật…

Mặt khác, để khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong thi hành Luật, việc cải cách pháp luật, đổi mới quy trình xây dựng văn bản QPPL cần quan tâm đến các giải pháp sau: 

1. Khi ban hành văn bản, cơ quan Trung ương cần quan tâm, chú trọng hơn đến tính đồng bộ trong các quy định, thường xuyên rà soát, công bố tính hiệu lực của các văn bản thuộc lĩnh vực quản lý để tạo thuận lợi cho địa phương trong việc triển khai thực hiện. 

2. Bộ Tư pháp tiếp tục xây dựng, biên soạn các tài liệu, cẩm nang hỗ trợ về kỹ thuật soạn thảo văn bản, kỹ năng thẩm định…; tăng cường tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ về công tác xây dựng, kiểm tra văn bản cho người làm công tác này ở các cơ quan tư pháp và người làm công tác pháp chế địa phương, chú trọng trao đổi những cách làm hay, những kinh nghiệm tốt giữa các địa phương trong quá trình thực hiện công tác này.

3. Cần định kỳ tổ chức Hội nghị sơ kết, tổng kết công tác kiểm tra, tự kiểm tra, rà soát và hệ thống hóa VBQPPL và công tác triển khai thực hiện các VBQPPL trong lĩnh vực này để đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế, rút ra nguyên nhân của tồn tại, hạn chế và đề ra giải pháp, phương hướng nhiệm vụ cho thời gian tiếp theo./.

Ths. Nguyễn Thanh Hoàng

...
  • Tags: