Cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn gọi là Công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0). Đây là cuộc cách mạng công nghiệp tập trung vào việc đưa công nghệ kỹ thuật số vốn có từ những thập niên gần đây lên một cấp độ hoàn toàn mới với sự trợ giúp của kết nối thông qua Internet vạn vật, truy cập dữ liệu thời gian thực và giới thiệu các hệ thống vật lý không gian mạng. CMCN 4.0 cung cấp cách tiếp cận liên kết và toàn diện hơn cho sản xuất. Nó kết nối với kỹ thuật số và cho phép cộng tác và truy cập tốt hơn giữa các bộ phận, đối tác, nhà cung cấp, sản phẩm và con người. CMCN 4.0 cũng cho phép các nhà máy trở nên thông minh, sản phẩm thông minh và chuỗi cung ứng cũng thông minh, và làm cho các hệ thống sản xuất và dịch vụ trở nên linh hoạt và đáp ứng khách hàng hơn… Không những vậy, CMCN 4.0 đồng thời tạo ra những phát minh thay đổi hoàn toàn cách các doanh nghiệp vận hành thông qua các công nghệ, như: Big Data (Dữ liệu lớn); Trí tuệ nhân tạo (AI); Internet of Things (vạn vật kết nối); Cloud (Điện toán đám mây)…
Việt Nam đang đứng trước một cơ hội rất lớn để thực hiện khát vọng xây dựng quốc gia thịnh vượng, hùng cường nếu ứng dụng hiệu quả các công nghệ lõi của CMCN 4.0 như trí tuệ nhân tạo, kết nối vạn vật, dữ liệu lớn, công nghệ chuỗi khối, điện toán đám mây... vào phát triển kinh tế - xã hội. Đối với các doanh nghiệp, những lợi ích mà CMCN 4.0 mang lại bao gồm: Tăng năng suất và doanh thu; Tối ưu hóa quy trình sản xuất; Phát triển công nghệ tăng tốc; Dịch vụ khách hàng tốt hơn.
Chủ trương từ Nghị quyết số 52 của Bộ Chính trị
Ngay từ năm 2019 - ngày 27-9-2019 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nghị quyết đã đề ra mục tiêu cho Chương trình lớn này. Cụ thể:
Mục tiêu tổng quát: Tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện các đột phá chiến lược và hiện đại hoá đất nước; phát triển mạnh mẽ kinh tế số; phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái.
Một số mục tiêu cụ thể đến năm 2025: Duy trì xếp hạng về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc 3 nước dẫn đầu ASEAN. Xây dựng được hạ tầng số đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN; Internet băng thông rộng phủ 100% các xã. Kinh tế số chiếm khoảng 20% GDP; năng suất lao động tăng bình quân trên 7%/năm. Cơ bản hoàn thành chuyển đổi số trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN trong xếp hạng chính phủ điện tử theo đánh giá của Liên hợp quốc. Có ít nhất 3 đô thị thông minh tại 3 vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung…
Từ đó đến nay, ¼ thế kỷ đã trôi qua. Nước ta đã đạt được nhiều thành tựu trong quá trình tổ chức thực hiện các mục tiêu của cuộc CMCN 4.0; góp phần tích cực phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Trong quá trình đó, Chính phủ quan tâm nhiều đến việc xây dựng một Chính phủ kiến tạo phát triển. Trong đó, điều cốt yếu nhất của khái niệm kiến tạo phát triển chính là nhân tố pháp luật. Chính phủ đã lựa chọn và đặt công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế, pháp luật làm trung tâm của việc xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển. Nhìn rộng hơn, một nhà nước kiến tạo phát triển là nhà nước cần phải tạo lập cho được hai hệ thống hạ tầng thiết yếu: “hạ tầng mềm” - hệ thống thể chế, pháp luật; “hạ tầng cứng” - là hệ thống cơ sở vật chất nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội (hệ thống giao thông, sân bay, bến cảng, thông tin truyền thông, quy hoạch không gian phát triển, sử dụng nguồn lực…).
Phát biểu tại Diễn đàn cấp cao và Triển lãm Quốc tế về Công nghiệp 4.0 năm 2023 (14/6/2023), Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên mà khoa học công nghệ phát triển như vũ bão và thực sự đang bước vào giai đoạn phát triển mới với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong thời gian vừa qua, với việc chuyển đổi theo mô hình tăng trưởng mới dựa trên nền tảng là năng suất và đổi mới sáng tạo, giảm bớt sự phụ thuộc vào những lợi thế cạnh tranh cũng như tài nguyên thiên nhiên hay nguồn nhân công giá rẻ, kinh tế Việt Nam đã đạt được những bước phát triển mới, nhiều thành quả. Chủ trương phát triển dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và các thành tựu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đã được Đảng, Nhà nước khẳng định trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII và nêu rõ trong Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, trong đó xác định công nghiệp chế tạo, chế biến là then chốt, chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy vậy, trình độ khoa học công nghệ (KHCN) của chúng ta vẫn còn có khoảng cách khá xa so với các quốc gia dẫn đầu khu vực Đông Nam Á, và nhất là khoảng cách giữa nghiên cứu KHCN với phát triển và ứng dụng KHCN vào đời sống xã hội, sản xuất. Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia còn non trẻ, manh mún. Và trên hết là chúng ta chưa tìm ra cách tiếp cận hiệu quả, chưa xây dựng được môi trường chính sách, pháp luật phù hợp để huy động nguồn lực tận dụng cơ hội đến từ CMCN 4.0.
Không chỉ đem lại những lợi ích vô cùng lớn cho sự phát triển, CMCN 4.0 cũng đưa đến những thách thức không nhỏ, như: Có thể là sự bất bình đẳng lớn hơn là những cơ hội mà nó tạo ra, khi phá vỡ thị trường lao động. Áp dụng công nghệ 4.0 để tự động hóa toàn bộ sức người, thay thế người lao động bằng máy móc, việc này có thể làm trầm trọng thêm sự chênh lệch giữa lợi nhuận so với vốn đầu tư và lợi nhuận so với sức lao động, đồng thời làm phát sinh một thị trường việc làm ngày càng tách biệt giữa các mảng "kỹ năng thấp/lương thấp" và "kỹ năng cao/lương cao", dẫn đến sự phân tầng xã hội ngày càng lớn hơn…
Đổi mới tư duy xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật trong thời đại CMCN 4.0
Tại các hội thảo chuyên đề, các chuyên gia cho rằng, việc dùng luật xác lập các quy tắc pháp lý để xử lý các vấn đề phát sinh từ ứng dụng công nghệ mới trong CMCN 4.0 được xem là một thách thức. Thực tiễn cuộc sống sẽ diễn ra nhanh hơn rất nhiều khả năng đáp ứng của quy trình xây dựng pháp luật (XDPL) hiện tại. Điều này cho thấy, việc tiếp tục tìm các giải pháp nhanh hơn nữa trong hoạt động lập pháp là điều cần thiết.
Có thể nói, tư duy xây dựng pháp luật (XDPL) của gần 40 năm đổi mới vừa qua là quá trình chuyển đổi từ tư duy quản lý nhà nước (QLNN) bằng mệnh lệnh hành chính sang tư duy quản lý bằng pháp luật và theo pháp luật, là bước đầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Thực tế cho thấy, nét đặc trưng trong tư duy làm luật ở Việt Nam là một tư duy chuyển đổi, là sự đan xen giữa cái cũ và cái mới, giữa lạc hậu và tiến bộ, giữa kìm hãm và phát triển, giữa quá khứ và tương lai, mặc dù xu hướng chính luôn luôn là đổi mới, tiến bộ và ngày càng phù hợp hơn với xu thế phát triển của thời đại.
Không thể phủ nhận rằng, trong gần 40 thực hiện công cuộc đổi mới, quy trình XDPL của nước ta có nhiều đổi mới, từ những quy định của văn bản dưới luật, chúng ta đã xây dựng được một đạo luật xác định rõ về hình thức, thẩm quyền ban hành và đặc biệt là về quy trình xây dựng và ban hành pháp luật. Tuy vậy, vẫn còn những điều bất hợp lý từ quy trình, thủ tục, hình thức văn bản đến thẩm quyền ban hành cũng như vai trò của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và người dân trong việc tham gia vào quy trình làm luật… Trước thực tiễn của vấn đề xây dựng pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ CMCN 4.0, việc đổi mới tư duy xây dựng pháp luật là cần chuyển đổi từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo phát triển.
Ở một góc độ khác, đôi khi công tác XDPL bị chi phối bởi lợi ích cục bộ, bởi tâm lý muốn có quyền và không loại trừ khả năng muốn có quyền để trục lợi; nếu không được kiểm soát chặt chẽ thì rất có thể các đạo luật được ban hành không đáp ứng được yêu cầu kiến tạo hành lang phát triển mà chỉ nhằm mục đích kiểm soát, quản lý thuần túy, trở nên kìm hãm sự phát triển.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy pháp luật theo quan điểm: pháp luật không chỉ thiết lập sự an toàn cho quản lý mà điều quan trọng hơn là kiến tạo một môi trường, một hành lang thuận lợi, dẫn dắt và thúc đẩy phát triển. Mục tiêu của công tác quản lý Nhà nước cuối cùng phải là phục vụ nhân dân và kiến tạo phát triển, không phải chỉ đơn thuần là sự an toàn cứng nhắc của xã hội. Để chuyển đổi được từ tư duy quản lý sang tư duy phục vụ và kiến tạo phát triển, cũng cần phải thay đổi nhiều nhận thức và cách làm trong quy trình XDPL hiện hành.
Một quan điểm nữa vô cùng quan trọng trong đổi mới tư duy pháp luật hiện nay, đó là XDPL phải dựa trên cơ sở bằng chứng, chính là tư duy thực tiễn - thực tiễn có kiểm chứng. Nghĩa là, mọi đề xuất xây dựng luật phải xuất phát từ thực tiễn, từ yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn và đến lượt nó, luật phải đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn. Nếu một đạo luật không được xây dựng dựa trên những đòi hỏi của thực tiễn, không phúc đáp được các yêu cầu của thực tiễn với những bằng chứng thuyết phục, nói một cách hình tượng là không đưa được cuộc sống vào luật thì đạo luật đó sẽ trở nên không khả thi và lẽ tất nhiên, nó cũng khó có thể đi vào cuộc sống. Vì vậy thiếu thông tin, xa rời thực tiễn, dẫn đến các ý tưởng chính sách được sáng tạo một cách chủ quan, không được kiểm chứng hay nói cách khác là không có đủ bằng chứng, chỉ là một thứ “chính sách phòng lạnh”.
Với quan điểm nói trên, việc xem xét, thông qua một đề nghị xây dựng luật và sau nữa là thông qua một dự án luật cần phải hết sức chú ý đến các hoạt động, các báo cáo, tài liệu của cả quá trình chuẩn bị đề nghị xây dựng luật cũng như soạn thảo luật theo quy định của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó: Hoạt động tổng kết, đánh giá thực tiễn thi hành luật phải thực chất và sát đúng với thực tiễn, tránh tình trạng các báo cáo tổng kết thực tiễn mang tính đối phó, hình thức, thiếu số liệu thực tế được kiểm chứng. Việc đề ra các giải pháp, các định hướng chính sách để khắc phục các vấn đề đặt ra của thực tiễn cần phải được phân tích, đánh giá một cách thấu đáo trên mọi phương diện để đưa ra những lựa chọn đúng. Nói cách khác là cơ quan đề xuất chính sách cần tìm kiếm bằng chứng để thuyết minh cho sự cần thiết phải xây dựng luật mà hầu như chưa ai đưa ra kết luận rằng cần lựa chọn giải pháp khác tốt hơn, hiệu quả hơn là ban hành hay sửa đổi, bổ sung đạo luật đó. Mặt khác, việc dự báo tính khả thi của chính sách phải dựa trên cơ sở của sự bảo đảm chắc chắn các nguồn lực cho thực thi chính sách khi luật được ban hành, tránh tình trạng chính sách nhiều, luật nhiều nhưng không có điều kiện nguồn lực, nhất là nguồn lực về tài chính để thực hiện hoặc thiếu sự đồng bộ trong chính sách nên tính khả thi không cao, luật không đi vào cuộc sống.
Để tiến đến một sự chuyên nghiệp trong XDPL, cần có nhiều giải pháp đồng bộ cả về thể chế, về nguồn lực và về cách thức tổ chức thực hiện, trong đó, mấu chốt là sự phân công hợp lý trong từng giai đoạn của quy trình làm luật hiện nay. Cụ thể là:
+ Trong giai đoạn nghiên cứu, đề xuất chính sách, tức là giai đoạn lập đề nghị xây dựng luật, các đơn vị chuyên môn của bộ QLNN phải là người chủ trì chính, đơn vị pháp chế là người phối hợp.
+ Sau khi đề nghị xây dựng luật đã được phê duyệt, giai đoạn soạn thảo luật cần phải được giao cho đơn vị pháp chế chủ trì.
+ Một vấn đề hết sức quan trọng trong XDPL là phải tìm kiếm sự đồng thuận. Trong XDPL không thể không có những ý kiến trái chiều, thậm chí là những mâu thuẫn về quan điểm, về lợi ích, nhưng cần xây dựng một nguyên tắc là: không có mâu thuẫn nào lại không thể được giải quyết. Và khi mâu thuẫn xuất hiện, các bên phải cùng nhau thảo luận, tranh luận, thậm chí là đấu tranh gay gắt nhưng với một tinh thần trách nhiệm, khách quan và công tâm, vì lợi ích quốc gia là trên hết để tìm kiếm sự đồng thuận - đó là yêu cầu bắt buộc.
Về đổi mới quy trình xây dựng luật, trước hết xem xét ở 2 vấn đề sau:
Thứ nhất, quy trình cắt khúc trong quá trình soạn thảo và trình luật. Đó là quy trình mà cơ quan soạn thảo và trình luật chỉ có trách nhiệm soạn thảo và trình dự án luật ra Quốc hội cho ý kiến lần thứ nhất tại một kỳ họp, sau đó UBTVQH sẽ là cơ quan chủ trì tiếp thu, chỉnh lý và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ hai để xem xét, thông qua.
Bất cứ một cơ quan nào trình dự án luật thì việc quyết định có thông qua hay không là quyền của Quốc hội. Nhưng các cơ quan trình dự án luật phải được quyền chủ trì và bảo vệ quan điểm của mình trong toàn bộ quá trình soạn thảo và trình thông qua dự án luật, còn cơ quan thẩm tra, dù đó là các Ủy ban của Quốc hội hay UBTVQH thì cũng chỉ làm đúng chức năng của cơ quan thẩm tra, giúp Quốc hội xem xét, thậm chí có thể đề nghị Quốc hội không thông qua một dự án luật, nhưng không nên làm thay và tước đi quyền của cơ quan trình luật.
Thứ hai, quy trình một dự án luật phải được trình tại hai kỳ họp Quốc hội. Nên chăng, không cứng nhắc như vậy, mà một dự án luật có thể được xem xét, thông qua ngay trong một kỳ họp của Quốc hội hay hai kỳ, thậm chí ba kỳ (ví dụ như dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) vừa qua) là quyền của Quốc hội khi Quốc hội xem xét dự án luật được trình, tùy theo chất lượng dự án luật và yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, không chủ quan, nóng vội nhưng cũng không nên chủ quan áp đặt. Tất cả là ở chất lượng dự án luật và yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, và hãy để điều đó cho Quốc hội xem xét và định đoạt./.
Ths. Đào Bá Vân