Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý đất đai ở cơ sở

Công tác theo dõi, đánh giá tình hình quản lý, sử dụng đất đai là một trong những nội dung đổi mới của Luật đất đai 2013 nhằm đánh giá đúng tình hình triển khai thi hành luật, đánh giá hoạt động quản lý nhà nước về đất đai, hiệu quả sử dụng đất và tác động của chính sách, pháp luật đất đai đến kinh tế, xã hội và môi trường ở từng địa phương và trên phạm vi cả nước…

Nhưng kể cả khi Luật đất đai (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua và ban hành thì một nhiệm vụ quan trọng không thể thay thế chính là công tác quản lý đất đai; có quản lý tốt thì việc thực thi Luật mới được đảm bảo.

Ảnh minh họa - TL

Thực tiễn công tác quản lý đất đai hiện nay

Thời gian qua, việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch đất đã được phê duyệt cơ bản đảm bảo, công tác quản lý HSĐC đã bước đầu đi vào nền nếp, các hoạt động đánh giá hiện trạng sử dụng đất, thống kê, kiểm kê đất đai được đảm bảo hơn; hồ sơ về đất đai của người dân được thực hiện theo thủ tục hành chính  của cơ chế một cửa, một cửa liên thông bước đầu đáp ứng yêu cầu trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai hướng tới đảm bảo quản lý và sử dụng đất hiệu quả, tiết kiệm cũng như góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công dân, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới của địa phương, đất nước.

Ngay sau khi có Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 31-10-2012, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XI, “Về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật để triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức xã hội được quan tâm; việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai được coi trọng, qua đó, đóng góp quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh của đất nước.

Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW khóa XI về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Nghị quyết số 18-NQ/TW do Hội nghị Trung ương lần thứ năm khóa XIII được ban hành về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao (Nghị quyết 18), đã nêu 5 quan điểm, mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể, 6 nhóm nhiệm vụ, giải pháp và 6 vấn đề về tổ chức thực hiện, với những nội dung cốt lõi và nhiều điểm mới.

Những Nghị quyết của Trung ương về nâng cao hiệu quả công tác quản lý đất đai đã tạo cơ sở cho quá trình quản lý được thực hiện tốt hơn và trong thực tế đã đạt được những kết quả nhất định, thể hiện ở 5 vấn đề sau: 1- Tài nguyên đất được quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả hơn, trở thành nguồn lực quan trọng cho sự phát triển đất nước, nguồn thu từ kinh tế đất ngày càng tăng; an ninh lương thực được bảo đảm; nhu cầu đất cho sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển đô thị, kết cấu hạ tầng, quốc phòng - an ninh được phân bổ hợp lý hơn; 2- Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước (QLNN) được nâng lên; từng bước gắn kết công tác quy hoạch, kế hoạch với định hướng khai thác sử dụng đất trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội qua các giai đoạn, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; việc phân cấp, phân quyền được coi trọng, bước đầu khắc phục tình trạng lãng phí, tạo quỹ đất cho các mục tiêu phát triển; 3- Quyền và nghĩa vụ của chủ thể sử dụng đất được phân định rõ hơn; bước đầu hình thành khung pháp lý cơ bản để thị trường bất động sản vận hành; các giao dịch chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp bằng quyền sử dụng đất không ngừng tăng lên; công tác cải cách thủ tục hành chính, thông tin và xây dựng cơ sở dữ liệu về đất đai được coi trọng hơn, đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đạt 97,3%; 4- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát bước đầu có chuyển biến; tình hình đơn, thư khiếu nại về đất đai có xu hướng giảm so với giai đoạn 2009 - 2013; việc xử lý các vụ tham nhũng, tiêu cực về đất đai đạt được những kết quả bước đầu tích cực; 5- Công tác tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai ở nhiều địa phương đã có chuyển biến, xuất hiện một số mô hình hay, hiệu quả kinh tế cao, thu hút nhiều vốn đầu tư trong và ngoài nước, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch đô thị văn minh được quan tâm,...

Một số hạn chế, tồn tại

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác QLNN về đất đai của UBND cấp cơ sở còn tồn tại những hạn chế nhất định: Còn để xảy ra những hành vi vi phạm pháp luật như sử dụng đất không đúng mục đích, xây dựng công trình trên đất nông nghiệp, có  hành vi lấn chiếm đất; tình trạng tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng ở các địa phương, chính quyền cơ sở một số nơi chưa làm tốt công tác hòa giải tranh chấp đất đai, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp trên phê duyệt có nơi chưa làm tốt; một số chính quyền địa phương cơ sở còn có lúc buông lỏng quản lý, có những yếu kém nhất định về công tác chỉ đạo, điều hành.  Việc tuyên truyền các quy định của pháp luật về đất đai đến nhân dân trong địa bàn phường chưa chủ động, tích cực, chất lượng các buổi tuyên truyền chưa cao. thống pháp luật trong lĩnh vực đất đai thường xuyên thay đổi. Giá đền bù quyền sử dụng đất do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thường thấp hơn rất nhiều so với giá thị trường. Vì vậy, công tác thu hồi, bồi thường cũng có những khó khăn nhất định. Trình độ, năng lực của cán bộ, công chức địa chính cấp xã một số nơi chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Mặt khác, tuy việc theo dõi đánh giá tình hình quản lý và sử dụng đất đai theo quy định của Luật đất đai 2013 ở các địa phương đã được thực hiện, nhưng do hiện vẫn chưa có nội dung, quy trình hướng dẫn cụ thể nên mỗi địa phương thực hiện theo một cách riêng, chưa thành nền nếp thường xuyên hàng năm; nội dung đánh giá chưa đầy đủ và chưa sâu; chất lượng đánh giá còn hạn chế, chưa sát thực tế, còn mang tính chủ quan, định tính mà thiếu các thông tin, số liệu chứng minh; vì vậy việc tổng hợp toàn quốc gặp nhiều khó khăn.

Bên cạnh đó, còn một số tồn tại trong nhận thức và thực hiện công tác quản lý đất đai; bao dồm: Về chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu ở Việt Nam, trong quá trình thực hiện, bên cạnh những kết quả đã đạt được còn không ít hạn chế, trong đó có cả trong nhận thức và tổ chức thực hiện. Về nhận thức, vẫn còn một bộ phận chưa hiểu rõ mối quan hệ giữa sở hữu toàn dân và Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý nhà nước về đất đai. Thực tế là, chủ sở hữu “toàn dân” tuy không hoàn toàn trùng với “đại diện” chủ sở hữu là Nhà nước, nhưng không vì thế mà đất đai không có chủ và Nhà nước không thực quyền. Vấn đề định giá đất, xử lý, giải quyết hài hòa các loại lợi ích, nhất là lợi ích của Nhà nước, người có đất bị thu hồi vẫn còn là những vướng mắc lớn, thậm chí là “điểm nghẽn” trong thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai. Còn những bất cập trong hệ thống thể chế, chính sách về đất đai tạo ra những vướng mắc trong tổ chức thực hiện, cụ thể như:  Nhiều nội dung của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành mâu thuẫn, chồng chéo với các luật khác, như Luật Nhà ở, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư, Luật Quy hoạch,...

Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý đất đai

Cần tập trung sửa đổi, hoàn thiện những bất cập trong hệ thống chính sách, pháp luật về đất đai theo hướng xây dựng thành một hệ thống chính sách, pháp luật tập trung, thống nhất về đất đai. Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính đất đai theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, nhất là giá đất, thực hiện công khai, minh bạch, độc lập trong việc định giá đất.  Kế tiếp là nâng cao năng lực quản lý nhà nước về đất đai theo hướng quản lý tổng hợp, tập trung, thống nhất trên cơ sở phân cấp, phân quyền hợp lý, cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý đất đai. Thu hẹp các đối tượng được giao đất và mở rộng đối tượng thuê đất. Đẩy mạnh và hoàn thiện việc giao đất, cho thuê đất theo hình thức đấu giá cạnh tranh quyền sử dụng đất. Quản lý chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất đối với đất quốc phòng - an ninh, đất có tính chất tài sản công. Hoàn thiện hệ thống quy hoạch - kế hoạch sử dụng đất với vai trò công cụ quản lý nhà nước về đất đai, đảm bảo phân bổ tài nguyên đất đai hợp lý, quản lý và sử dụng đất hiệu quả, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Kiểm soát chặt chẽ việc thu hồi đất, bảo đảm công khai, minh bạch, dân chủ, công bằng. Quy định rõ các trường hợp thu hồi đất vì mục tiêu quốc phòng - an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Hoàn thiện hệ thống các công cụ tài chính, kinh tế đất, đổi mới phương pháp xác định giá đất, bảo đảm độc lập, khách quan, cập nhật biến động giá đất trên thị trường, minh bạch. Xây dựng, hoàn thiện các chính sách tích tụ, tập trung đất đai cho sản xuất nông nghiệp theo tư duy mới về an ninh lương thực: Nâng hạn mức sử dụng đất nông nghiệp; cho phép linh hoạt chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên đất trồng lúa; quy định mở rộng đối tượng được nhận chuyển nhượng đất trồng lúa cho hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp, tổ chức kinh tế trong nước, đồng thời quy định các điều kiện cụ thể để được nhận chuyển nhượng đất trồng lúa… Đẩy mạnh việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong lĩnh vực đất đai theo hướng phân cấp quản lý. Bên cạnh đó, các tranh chấp về đất đai kể cả tồn đọng hiện nay và phát sinh mới cần được giải quyết tại tòa án chuyên ngành. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, phát hiện xử lý kịp thời, nghiêm minh các tập thể, cá nhân vi phạm pháp luật đất đai.

Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về đất đai ở cấp cơ sở (xã, phường), cần phải thực hiện nghiêm túc một số giải pháp, bao gồm: (1) Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên và  sự giám sát của HĐND cùng cấp.  (2) Cần coi trọng  công tác đào tạo, bồi dưỡng cho công chức địa chính cấp xã. Hằng năm, các cơ quan nhà nước cần tăng cường các đợt tập huấn về kiến thức pháp luật đất đai, chuyên môn nghiệp vụ, cũng như nâng cao trình độ tin học để công chức địa chính các xã, phường, thị trấn có thể khai thác ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ tốt cho công việc. (3). Người Lãnh đạp cấp xã, phường phải không ngừng học tập, thường xuyên nghiên cứu, nắm chắc các quy định của pháp luật đất đai, cũng như kỹ năng xử lý các tình huống phát sinh trong lĩnh vực đất đai. Đồng thời xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác QLNN về đất đai. (4). Có cơ chế hỗ trợ kinh phí hoạt động hằng năm cho lĩnh vực quản lý đất đai, trang bị máy móc, tủ đựng tài liệu - hồ sơ địa chính ở cấp xã, phường đảm bảo cho việc hoàn thành nhiệm vụ được giao. (5).  Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật đất đai đến từng người dân trong địa bàn xã, phường, thị trấn đi đôi với việc thiết lập cơ chế hỗ trợ pháp lý cho người có QSDĐ để họ bảo vệ được quyền lợi của mình và chấp hành đầy đủ nghĩa vụ của người sử dụng đất.

Cùng với các giải pháp được nêu, việc triển khai thực hiện tốt Nghị quyết 18 của Trung ương (Khóa XIII) sẽ giúp hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý và sử dụng đất đồng bộ và phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nguồn lực đất đai được quản lý, khai thác, sử dụng bảo đảm tiết kiệm, bền vững, hiệu quả cao nhất; đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa công bằng và ổn định xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; tạo động lực để nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất, trở thành kênh phân bổ đất đai hợp lý, công bằng, hiệu quả./.

TS. Hà Nam Giang

...
  • Tags: