Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới

Trong những năm qua, hệ thống pháp luật của Việt Nam không ngừng được hoàn thiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, lao động, việc làm, an sinh xã hội…; cơ bản thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, chủ động hội nhập quốc tế trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tuy nhiên, trong tình hình mới hiện nay, đời sống kinh tế - xã hội phát triển rất nhanh, đòi hỏi hệ thống pháp luật cũng phải được kịp thời bổ sung, hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.

Ảnh minh họa - Internet

Khái quát về hệ thống pháp luật

Theo nghĩa chung nhất, hệ thống pháp luật được hiểu là một chỉnh thể các hiện tượng pháp luật (mà cốt lõi là các quy phạm pháp luật, được thể hiện trong các nguồn pháp luật) có sự liên kết, ràng buộc chặt chẽ, thống nhất với nhau, luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau để thực hiện việc điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội. Cụ thể hơn, đó là tập hợp tất cả các quy phạm, văn bản pháp luật tạo thành một cấu trúc tổng thể, được phân chia thành các bộ phận có sự thống nhất nội tại theo những tiêu chí nhất định như bản chất, nội dung, mục đích.

Về bản chất, hệ thống pháp luật chính là chuẩn mực hướng dẫn hành vi cho tất cả các cá nhân, tổ chức, bao gồm cả Nhà nước khi tham gia vào các quan hệ xã hội; là thước đo thể hiện trình độ phát triển của đất nước.

Ở nước ta hiện nay có các ngành luật cụ thể là: Luật hành chính, Luật Nhà nước, Luật đất đai, Luật dân sự, Luật tài chính, Luật hôn nhân và gia đình, Luật lao động, Luật tố tụng dân sự, Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Luật kinh tế.

Từ những khái niệm chung đó, hệ thống pháp luật có những đặc điểm cơ bản sau:

- Hệ thống pháp luật được hình thành một cách khách quan, phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước, các thành tố của hệ thống pháp luật là do chính các quan hệ xã hội mà chúng điều chỉnh xác lập, không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể ban hành pháp luật.

- Các thành tố của hệ thống pháp luật luôn có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất và phù hợp với nhau. Trong đó, sự thống nhất nội tại là một nguyên tắc rất quan trọng của hệ thống pháp luật, điều này biểu hiện ở sự gắn bó hữu cơ khăng khít với nhau giữa các quy định pháp luật, các nguồn pháp luật với nhau và với các thành tố khác của hệ thống pháp luật.

- Tính ổn định của Hệ thống pháp luật chỉ là tương đối, nó luôn vận động thay đổi, phát triển từ thời kỳ này sang thời kỳ khác cho phù hợp với nhu cầu điều chỉnh pháp luật và tiến trình phát triển của đất nước. Cũng có thể hiểu là khi các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... thay đổi, phát triển thì hệ thống pháp luật cũng thay đổi, phát triển theo để đáp ứng việc điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội ở mỗi thời kỳ.

Hệ thống pháp luật nước ta ngày một hoàn thiện hơn

Nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống pháp luật, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt tới vấn đề xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật thông qua việc đề ra các tiêu chí, yêu cầu đối với hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48-NQ/TW) đã xác định yêu cầu của hệ thống pháp luật phải đạt được đó là “đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng diễn ra sau khi tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW đã tiếp tục kế thừa và bổ sung các tiêu chí của hệ thống pháp luật “đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”. Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn chưa theo kịp yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới, một trong những nguyên nhân của thực trạng này là do hệ thống pháp luật còn bất cập, chưa thực sự đáp ứng được đòi hỏi từ thực tiễn. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đã đặt ra các yêu cầu đối với hệ thống pháp luật phải thực sự “dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo”; “khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước”.

Khách quan mà nói, trong những năm qua, hệ thống pháp luật của Việt Nam không ngừng được hoàn thiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, lao động, việc làm, an sinh xã hội… Về cơ bản, hệ thống pháp luật đã thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, chủ động hội nhập quốc tế trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thống kê số lượng luật được Quốc hội thông qua trong Quốc hội khóa XI, XII, XIII, XIV (kể từ khi Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 được ban hành, đến tháng 12/2020) là 329 luật, bộ luật.

Tuy nhiên, trong tình hình mới hiện nay, đời sống kinh tế - xã hội phát triển rất nhanh, đòi hỏi hệ thống pháp luật cũng phải được kịp thời bổ sung, hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển…  Quan điểm chỉ đạo việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là: Tạo đột phá trong thể chế pháp luật, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, sử dụng pháp luật để kiểm soát quyền lực nhà nước một cách thiết thực, hiệu quả; tiếp tục cải cách tư pháp, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; bảo đảm thể chế hóa đầy đủ, kịp thời đường lối của Đảng, cụ thể hóa Hiến pháp, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân làm trung tâm, bảo đảm Nhân dân làm chủ, kiểm soát quyền lực nhà nước, quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, tạo động lực phát triển nhanh và bền vững đất nước; xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, kế thừa những thành tựu đã đạt được trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam; thực hiện đầy đủ, có trách nhiệm Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và chế độ XHCN; đổi mới sáng tạo pháp luật để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện dân chủ XHCN, đổi mới hệ thống chính trị. Đặc biệt là sự chú trọng tới vai trò của Hiến pháp và pháp luật, quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Cùng với đó, mục tiêu của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực hiện pháp luật là phải đạt được thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, đề cao vai trò, giá trị, các nguyên tắc pháp quyền, phát triển và nâng cao chất lượng thể chế pháp luật, xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, kiến tạo phát triển, bảo đảm pháp luật được thực hiện công bằng, nghiêm minh, nhất quán, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả; nâng cao nhận thức về sự tôn nghiêm của Hiến pháp, văn hóa pháp luật, ý thức pháp luật cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và Nhân dân.

Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật

Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được, hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, bất cập sau đây: 

Một là, vẫn còn tồn tại tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, xung đột giữa các quy định, gây khó khăn trong quá trình thực hiện pháp luật. Thực tế cho thấy, hệ thống pháp luật Việt Nam đồ sộ, những văn bản ở các cấp độ hiệu lực khác nhau do nhiều chủ thể ban hành; thực trạng này tác động không nhỏ đến khả năng tìm kiếm, tiếp cận quy định của người dân, tổ chức, doanh nghiệp và kể cả các cơ quan nhà nước trong quá trình thực thi công vụ. Đồng thời, vẫn còn tồn tại tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các luật, bộ luật; giữa văn bản hướng dẫn luật này với văn bản hướng dẫn luật khác; nhất là giữa các văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực: Đất đai, đầu tư, xây dựng, quy hoạch; nhà ở, kinh doanh bất động sản, môi trường, vệ sinh, an toàn thực phẩm…

Hai là,  để thực hiện hiệu quả chức năng điều chỉnh, đòi hỏi các quy định phải có tính dự báo về xu hướng phát triển của các quan hệ xã hội; tuy nhiên, một số văn bản quy phạm pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu này dẫn đến tính ổn định còn thấp, tần suất sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, thay thế cao. Cá biệt, có những bộ luật phải tạm hoãn thi hành để thực hiện sửa đổi, bổ sung, khắc phục những sai sót còn tồn tại. Thực trạng này cũng phản ánh vấn đề trình độ xây dựng pháp luật của nước ta chưa đạt được trình độ cao.

Ba là, chất lượng một số văn bản quy phạm pháp luật chưa cao, chưa phù hợp với thực tiễn, thiếu tính khả thi.

Bốn là, còn có tình trạng ban hành văn bản sai về thẩm quyền, nội dung, hình thức, thủ tục.

Vậy Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới là như thế nào?

Thứ nhất, cần tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức Đảng đối với công tác hoàn thiện pháp luật. Theo đó, các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp cần tổ chức quán triệt đầy đủ; xây dựng chương trình, kế hoạch nhằm triển khai có hiệu quả nhiệm vụ thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Thứ hai, phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm tính chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả.  Quy định rõ ràng, tách bạch quy trình xây dựng chính sách với quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật… Bên cạnh đó, hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội, giải trình và tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Cùng với đó, cần tập trung hoàn thiện các quy định của pháp luật trong một số lĩnh vực như: Tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị; phát huy dân chủ, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ; phát triển nguồn nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài; văn hóa, thông tin, truyền thông, thể thao, y tế, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn; tư pháp, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; đối ngoại và hội nhập quốc tế… Tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật để bảo đảm chủ quyền nhân dân, quyền làm chủ của Nhân dân, vai trò chủ thể, trung tâm của Nhân dân; phát huy tốt hơn các hình thức dân chủ trực tiếp của Nhân dân; thực hiện phương châm tổng quát “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Thứ ba, thông qua đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ công chức tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật.  Nhất là vấn đề đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cũng như nâng cao tinh thần trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật.

Thứ tư, bảo đảm các điều kiện vật chất trong hoạt động xây dựng pháp luật. Cần quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí thỏa đáng cho công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; cũng là góp phần nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ năm, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về Hiến pháp và pháp luật nói riêng, về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới./.

Ths. Lâm Quang Phùng

...
  • Tags: