Hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ hội nhập quốc tế

Ngày nay, để cạnh tranh hiệu quả trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, các quốc gia đều chú trọng xây dựng chiến lược cạnh tranh quốc gia, trong đó chính sách cạnh tranh là bộ phận cốt lõi. Đó là tìm ra các biện pháp và lựa chọn các chính sách phù hợp, đảm bảo tạo dựng một môi trường thuận lợi để vận hành có hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Trong quá trình đó, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển trong hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề rất quan trọng, cần được quan tâm đúng mức.

 

Ảnh minh họa - TL

Kết quả tích cực và mặt hạn chế của hệ thống pháp luật kinh tế hiện nay

Thời gian vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, những quy định trong hệ thống pháp luật kinh tế Việt Nam đã ghi nhận và tạo điều kiện để triển khai thực hiện những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền tự do kinh doanh thông qua việc xác định ngành nghề kinh doanh bị cấm, ngành nghề kinh doanh có điều kiện... Đặc biệt, đã có nhiều quy định phát triển thị trường nội địa theo hướng ổn định, văn minh, hiện đại phù hợp với các xu hướng chung của hội nhập kinh tế quốc tế. Mở cửa thị trường cho dịch vụ phân phối theo các cam kết với WTO. Tiếp tục tự do hoá thương mại trên cơ sở thực hiện các cam kết song phương, đa phương và theo thông lệ quốc tế; giảm dần các biện pháp bảo hộ thuế quan và phi thuế quan phù hợp với cam kết đã ký kết. Có chính sách tạo bước phát triển nhanh, mạnh và toàn diện thị trường dịch vụ nhất là những dịch vụ có giá trị gia tăng lớn như: dịch vụ viễn thông, dịch vụ thực hiện phần mềm, dịch vụ tư vấn khoa học… Cùng với đó, quy trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đã từng bước được đổi mới. Nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý bằng pháp luật trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.  Các nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được đề cao và phát huy trên thực tế; Công tác phổ biến và giáo dục pháp luật được tăng cường… Những tiến bộ đó đã góp phần thể chế hoá đường lối của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lí điều hành của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội của đất nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được, nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu. Nhiều đạo luật có nội dung còn chung chung, do đó cần phải ban hành nhiều văn bản dưới luật để cụ thể hóa vì vậy đã làm chậm quá trình thực thi luật vào cuộc sống. Pháp luật kinh tế chưa đảm bảo tính đồng bộ, do đó nhiều quy định mang tính nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp và các đạo luật chưa được thực thi trong thực tiễn.

Trong xu hướng hội nhập quốc tế, tầm quan trọng của Luật kinh tế ngày càng được khẳng định, vì hội nhập trước hết là hội nhập về kinh tế. Đối với mỗi doanh nghiệp, Luật Kinh tế được coi như “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy, doanh nghiệp dù hoạt động trên lĩnh vực nào cũng không thể thiếu cơ sở pháp lý, mà Luật Kinh tế là điều kiện căn bản nhất.

Giải pháp hoàn thiện

Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật kinh tế phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế, cần phải sửa đổi, bổ sung và ban hành luật để thay thế dần các hình thức văn bản quy phạm pháp luật khác. Xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế phải nhằm thúc đẩy sự vận hành và phát triển của nền kinh tế thị trường; đảm bảo pháp luật kinh tế không chỉ phù hợp với thực tiễn Việt Nam, mà còn phải có sự tương thích với pháp luật của các nước trên thế giới, đây là điều kiện quan trọng để thúc đẩy chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Cụ thể cần quan tâm một số nội dung sau:

1. Tiếp tục thể chế hóa những mục tiêu về định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường vào thể chế, chính sách pháp luật nhà nước; đồng thời, giải quyết hài hòa giữa vai trò điều tiết của Nhà nước trong bảo đảm tính định hướng XHCN với sự vận động theo quy luật kinh tế khách quan của thị trường; theo chủ trương được xác định trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII: Nhà nước ban hành luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức, xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo ra khung khổ pháp luật cho sự hình thành, hoạt động và định hướng cho hoạt động của các thị trường, các tổ chức xã hội. Đồng thời, Nhà nước sử dụng các lực lượng kinh tế của mình tham gia vào thị trường và bằng công tác tuyên truyền, vận động, thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của các chủ thể kinh tế, các tổ chức xã hội để tác động, định hướng, điều chỉnh hoạt động của thị trường và các tổ chức xã hội. Song, mặt khác, ở chiều ngược lại, Nhà nước theo dõi tình hình thị trường, những biến động của giá cả, cung - cầu, đầu tư, hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường và lắng nghe ý kiến góp ý, phản ánh, phản biện của Nhân dân, các tổ chức xã hội đối với luật pháp, chính sách, quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước để nắm bắt đúng nhu cầu của xã hội, đúng thực trạng của nền kinh tế, nhất là những khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ.

2. Tiếp tục cải cách và đổi mới thể chế để tạo động lực phát triển, phấn đấu đến năm 2025 cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.  Thúc đẩy những yếu tố có khả năng tạo ra giá trị gia tăng lớn của sản xuất như: Công nghệ đổi mới sáng tạo, tri thức, khoa học và công nghệ, kinh tế công nghệ, nông nghiệp công nghiệp và quản lý tiên tiến…

3. Khắc phục ngay những tồn tại trong công tác xây dựng pháp luật kinh tế như: Ban hành hướng dẫn thi hành pháp luật kinh tế vẫn còn chậm; tình trạng sửa đổi, bổ sung luật quá nhiều lần hoặc một nội dung mà quá nhiều luật điều chỉnh, hạn chế những điểm chồng chéo khi thực thi chính sách mà có quá nhiều hướng dẫn khiến doanh nghiệp khó nắm bắt và áp dụng; nâng cao chất lượng ban hành chính sách pháp luật kinh tế đáp ứng được yêu cầu quản lý của Nhà nước pháp quyền…

4. Để bảo đảm đổi mới thành công, cần phải có hệ thống luật pháp đổi mới đáp ứng được thực tiễn đất nước, do vậy cần tuyển chọn những nhà hoạch định và làm chính sách tốt, có cơ chế thoả đáng, xoá bỏ những rào cản không hợp lý để tạo điều kiện tốt nhất trong việc vận hành và tổ chức thực hiện, được tổ chức hợp lý, thực hành dân chủ, có khả năng huy động và quản lý mọi nguồn lực của đất nước.

5. Nâng cao chất lượng công tác dự báo, nghiên cứu lý luận phục vụ việc xây dựng và hoạch định chính sách và pháp luật đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Tránh tình trạng các quy định trong hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách và quản lý, điều hành chưa tuân thủ đầy đủ quy luật của kinh tế thị trường.

6. Trong hoạt động xây dựng pháp luật, nhất là pháp luật kinh tế, cần nghiên cứu, học hỏi, tiếp thu các quy định trong pháp luật về kinh tế của các nước, vì những vấn đề mà Việt Nam đang tiếp cận đã từng được cộng đồng quốc tế nghiên cứu, giải quyết bằng pháp luật một cách thỏa đáng và khoa học./.

Ths. Đinh Xuân Năng

...
  • Tags: