Hoàn thiện thể chế nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về môi trường

Bảo vệ môi trường, phát triển bền vững đất nước là quan điểm phát triển xuyên suốt của Đảng. Quan điểm này được thể hiện qua chủ trương, chính sách phát triển phù hợp với yêu cầu, điều kiện phát triển của đất nước qua từng thời kỳ. Trong đó, thể chế quản lý nhà nước về môi trường bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý môi trường, cũng dần được hoàn thiện hơn…

Đại hội XII, XIII của Đảng đề ra các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội đều được gắn chặt với nhiệm vụ bảo vệ môi trường, gắn kết hài hòa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; bảo vệ, cải thiện môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo đảm quốc phòng, an ninh; tập trung làm tốt công tác nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe, giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh, trật tự và bảo vệ môi trường; phát triển công nghiệp năng lượng, luyện kim, hóa dầu, hóa chất với công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, tạo ra sản phẩm có khả năng cạnh tranh; khai thác hiệu quả, bền vững các di sản văn hóa, thiên nhiên, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh và giữ gìn vệ sinh môi trường; đẩy nhanh điều tra cơ bản về tài nguyên, môi trường biển, đảo; rà soát, sửa đổi chính sách, pháp luật để thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, nhất là các dự án có công nghệ cao, thân thiện môi trường, sản phẩm có giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa cao, tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế… Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài có công nghệ cao, thân thiện môi trường; từng bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, xanh, thân thiện với môi trường, nhất là các đô thị lớn; tăng cường quản lý nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và thực hiện đồng bộ giải pháp chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của người dân. Thực hiện xã hội hóa công tác bảo vệ và xử lý ô nhiễm môi trường. Kiểm soát chặt chẽ các nguồn gây ô nhiễm. Khắc phục hiệu quả ô nhiễm môi trường do chiến tranh để lại… Đặc biệt là không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế đơn thuần…

Kế thừa các quan điểm trước đó, Đại hội XIII của Đảng xác định nhiệm vụ bảo vệ môi trường là nội dung quan trọng trong quá trình phát triển đất nước nhanh, bền vững; tiếp tục khẳng định quan điểm phát triển kinh tế luôn gắn kết với bảo vệ môi trường trong từng bước và từng chính sách phát triển.

Từ chủ trương của Đảng về quản lý và bảo vệ môi trường, thể chế quản lý nhà nước về môi trường đã được thực thi.

Về khái niệm chung, Thể chế quản lý nhà nước gồm hệ thống luật, các văn bản pháp quy dưới luật tạo khuôn khổ pháp lý cho các cơ quan hành chính nhà nước, thực hiện chức năng quản lý, điều hành mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cũng như cho mọi tổ chức và cá nhân sống và làm việc theo pháp luật. Theo đó, thể chế quản lý nhà nước về môi trường là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và tổ chức bộ máy quản lý nhà nước vận hành các quy định pháp luật đó một cách thống nhất, nhằm đáp ứng các yêu cầu, mục tiêu đặt ra.

Kết quả đạt được về thể chế quản lý nhà nước về môi trường

Nhờ những nỗ lực chung, trong nhiều năm qua, quá trình xây dựng, vận hành thể chế quản lý nhà nước về môi trường đã đạt được những kết quả tích cực; thể hiện ở những mặt sau:

Một là, xây dựng và ban hành các chính sách, pháp luật về môi trường: Trong thời kỳ đẩy mạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước đã ban hành rất nhiều các văn bản về quản lý và bảo vệ môi trường. Cụ thể như: Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 15/11/2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.. Tiếp đó, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 03/6/2013 về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Kết luận số 56-KL/TW, ngày 23/8/2019 của Trung ương về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đến Đại hội toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm “Lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe của nhân dân là mục tiêu hàng đầu…”. Ngày 13/4/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 450/QĐ- TTg phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, đến năm 2030, “Ngăn chặn xu hướng gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường; giải quyết các vấn đề môi trường cấp bách; từng bước cải thiện, phục hồi chất lượng môi trường; ngăn chặn sự suy giảm đa dạng sinh học; góp phần nâng cao năng lực chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo đảm an ninh môi trường, xây dựng và phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, các bon thấp, phấn đấu đạt được các mục tiêu phát triển bền vững 2030 của đất nước” và tầm nhìn đến năm 2050 là “Môi trường Việt Nam có chất lượng tốt, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành và an toàn của nhân dân; đa dạng sinh học được gìn giữ, bảo tồn, bảo đảm cân bằng sinh thái; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; xã hội hài hòa với thiên nhiên, kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, các bon thấp được hình thành và phát triển, hướng tới mục tiêu trung hòa các bon vào năm 2050”.

Những chủ trương của Đảng đã thể hiện ở các văn bản pháp luật được ban hành thường xuyên trong thời gian qua, như: Quyết định số 1788/QĐ-TTg, ngày 01/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch xử lý triệt để cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đến năm 2020; Quyết định số 491/QĐ-TTg, ngày 07/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050; Nghị định số 53/2020/NĐ-CP, ngày 05/5/2020 của Chính phủ quy định phí bảo vệ môi trường đối với nước thải… Đặc biệt, năm 2020, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường thay thế Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 (Luật số 72/2020/QH14 ban hành ngày 17/11/2020 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2022), đã quy định rất cụ thể, rõ trách nhiệm của các chủ thể trong các khâu bảo vệ môi trường. Chính phủ đã ban hành các nghị định như: số 54/2021/NĐ-CP, ngày 21/5/2021 quy định về đánh giá sơ bộ tác động môi trường; số 55/2021/ NĐ-CP, ngày 24/5/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 155/2016/NĐ-CP, ngày 18/11/2016 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; số 08/2022/NĐ-CP, ngày 10/01/2022 quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản quy phạm pháp luật khác.

Hai là, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về môi trường: Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản và môi trường. Trong những năm qua, bộ máy quản lý nhà nước của ngành Tài nguyên và Môi trường đã được kiện toàn, bổ sung, hoàn thiện từ Trung ương đến địa phương và triển khai thực hiện đồng bộ, thống nhất, hiệu lực, hiệu quả… Bộ máy quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương đã từng bước được kiện toàn để tăng cường tổ chức bộ máy của ngành Tài nguyên và Môi trường hoàn thiện theo hướng tinh gọn, thống nhất quản lý và hoạt động hiệu quả. Nếu Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường ở Trung ương thì Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường là các tổ chức, cá nhân giúp việc UBND các cấp quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường ở địa phương…

Ba là, về thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm: Thể chế thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong lĩnh vực môi trường đã dần được hoàn thiện, theo đó, đã hoàn thiện theo hướng điều chỉnh, hoàn thiện về nội dung và đối tượng thanh tra, xử lý triệt để tình trạng chồng chéo trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát. Từ đó, đã góp phần xử lý các sai phạm trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường mà xã hội quan tâm và tạo được sự đánh giá cao của xã hội.

Một số bất cập trong thể chế quản lý nhà nước về môi trường

- Tuy thể chế đang dần được hoàn thiện, công tác xây dựng, ban hành văn bản pháp luật hiện đã có khá nhiều, nhưng còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, còn chồng chéo, mâu thuẫn, nhất là giữa các Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai, Luật Khoáng sản và Luật Đa dạng sinh học…, làm giảm hiệu quả, hiệu lực của quản lý nhà nước về môi trường. 

- Các vấn đề liên quan đến môi trường, như: tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường, đang đặt ra ngày càng gay gắt. Chính vì vậy, việc xây dựng, tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan đến môi trường vẫn cần tiếp tục được hoàn thiện, đồng bộ và nhất quán, khắc phục được tình trạng chưa thống nhất trong nhận thức và hành động, từ các cơ quan quản lý đến từng doanh nghiệp và mỗi người dân.

- Thể chế liên quan đến tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về môi trường vẫn còn những bất cập, chưa thể đáp ứng được với yêu cầu quản lý đối với một số lĩnh vực lớn, phức tạp, nhạy cảm đang gia tăng.

- Theo quy định tại Luật Bảo vệ môi trường 2020 thì các bộ, ngành và địa phương đều cùng với Bộ Tài nguyên và Môi trường tham gia quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được giao theo Luật. Nhưng hiện nay, điều đó còn bất cập, chưa có được sự tham gia và phối hợp đúng mức của các bộ, ngành trong công tác bảo vệ môi trường.

- Chính sách về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm chưa được chú trọng hoàn thiện đúng mức, còn có sự buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát về môi trường. Quy định về chế tài xử lý đối với các hành vi gây tổn hại đến môi trường chưa đủ mạnh và mang tính răn đe hiệu quả; biện pháp xử lý vi phạm giữa các văn bản pháp luật về môi trường còn có những khoảng trống… dẫn đến hiệu quả và hiệu lực trong xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường còn thấp.

Giải pháp hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về môi trường

Để tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, với vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã và đang tập trung thực hiện 3 nhóm giải pháp:

Thứ nhất, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường nhằm thể chế hóa việc thực hiện chủ trương không thu hút đầu tư bằng mọi giá, không đánh đổi môi trường vì lợi ích kinh tế, kiểm soát nguy cơ phát sinh sự cố môi trường và vấn đề ô nhiễm môi trường xuyên biên giới. Xây dựng quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia; quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia làm cơ sở phân vùng, định hướng đầu tư, phát triển các ngành kinh tế, đảm bảo phù hợp với sức chịu tải của môi trường, và một số quy hoạch khác. Tiếp tục tăng cường cơ chế giám sát về bảo vệ môi trường đối với các dự án, cơ sở sản xuất có nguy cơ gây sự cố, ô nhiễm môi trường cao. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất; tăng cường công tác bảo vệ môi trường các khu – cụm công nghiệp để kịp thời xử lý nguy cơ ô nhiễm nếu có…
Thứ hai, thiết lập và triển khai có hiệu quả các cơ chế xã hội hóa nhằm huy động tổng lực sự tham gia của toàn xã hội trên cơ sở kết hợp giữa Nhà nước, các tổ chức, giới khoa học, doanh nghiệp và người dân vào công tác bảo vệ môi trường. Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho bảo vệ môi trường…

Thứ ba, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách hành chính, đồng bộ hóa, hiện đại hóa hệ thống thông tin, dữ liệu về môi trường. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tranh thủ có hiệu quả sự hỗ trợ của quốc tế trong công tác bảo vệ môi trường. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường.

Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ Trung ương đến cơ sở. Đảm bảo đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường có cơ cấu hợp lý, được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ môi trường, quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học và các yêu cầu khác đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường… Điều kiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ Trung ương đến địa phương được bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong tình hình mới./.

Ths. Đỗ Văn Loan

...
  • Tags: