Nâng cao năng lực quản lý ô nhiễm rác thải nhựa ở Việt Nam

Rác thải nhựa đang trở thành “quan tâm chung của loài người” khi số lượng và sự kém quản lý đang tạo ra một trong những mối đe dọa nghiêm trọng cho các hệ sinh thái môi trường, đất liền, sông suối, biển, lòng đất. Rác thải nhựa có ở khắp mọi nơi, tác động

Tóm tắt: Rác thải nhựa đang trở thành “quan tâm chung của loài người” khi số lượng và sự kém quản lý đang tạo ra một trong những mối đe dọa nghiêm trọng cho các hệ sinh thái môi trường, đất liền, sông suối, biển, lòng đất. Rác thải nhựa có ở khắp mọi nơi, tác động đến mọi mặt của cuộc sống từ sản xuất, tái chế, tiêu dùng. Với tính bền vững và tính không hòa tan, tác động của rác thải nhựa có thể ảnh hưởng hàng trăm đến hàng ngàn năm, tác động đến quyền và lợi ích của thế hệ hiện tại và tương lai. Quản lý ô nhiễm rác thải nhựa không chỉ là nghĩa vụ cá nhân mà của tập thể, không chỉ một quốc gia mà cần có sự hợp tác phối hợp của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Từ khóa: Ô nhiễm rác thải nhựa; năng lực quản lý ô nhiễm rác thải nhựa; dự thảo Công ước quốc tế về ngăn ngừa, ứng phó và quản lý ô nhiễm rác thải nhựa.

Abstract: Plastic waste is becoming a "common concern of mankind" when its quantity and poor management are creating one of the serious threats to environmental ecosystems, lands, rivers and streams, seas, seabeds and subsoils. Plastic wastes are everywhere, impacting every aspect of life from production, recycling to consumption, With their sustainability and insolubility, the impact of plastic wastes can last from hundreds to thousands of years, and affect harmfully the rights and interests of present and future generations. The sustainable management of plastic wastes is not only an individual but a collective obligation, not just by an individual state, but requires the cooperation and coordination of many countries, including Vietnam.

Keywords: Plastic waste pollution; management capacity for plastic waste pollution; draft international convention on the prevention, response and management of plastic waste pollution.

Ảnh minh họa - Internet

1. Tổng quan về ô nhiễm rác thải nhựa và sự cần thiết quản lý ô nhiễm rác thải nhựa

Trong vòng một thế kỷ, nhựa và vi nhựa đã trở thành một phát minh vĩ đại, là vật liệu được ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Nhựa và vi nhựa được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp đóng gói, ô tô, xây dựng, vân tải, hàng không vũ trụ, trong các siêu thị, đồ dùng gia đình, quần áo tới trường học và là thói quen khó bỏ của người tiêu dùng. Nhựa góp phần làm cuộc sống hiện đại hơn, dễ chịu hơn, tiện lợi hơn. Tuy nhiên, rác thải nhựa (RTN) là thách thức môi trường chính của thế giới ngày nay do những đặc thù sau đây:

Thứ nhất, tính phổ biến và tiện lợi của đồ dùng nhựa đã tăng mức độ sản xuất vượt quá khả năng xử lý chất thải. Nhựa đã trở thành vật liệu sản xuất đứng thứ ba thế giói chỉ sau xi măng và thép. Hơn 50% các vật phẩm nhựa chỉ dùng một lần. Khoảng 80% nhựa sản xuất ra trở thành rác thải chỉ sau một năm và tạo nên lượng ô nhiễm khổng lồ.Một nửa tổng số nhựa từng được sản xuất được làm ra chỉ trong 13 năm qua, nhưng chỉ có khoảng 9% nhựa được tái chế, 12% được đốt và 79% bị tích luỹ trong các bãi chôn lấp hoặc trong môi trường tự nhiên.[1]

Theo Báo cáo của Liên hợp quốc, hàng năm có khoảng 500,000,000,000 túi nhựa được sử dụng; 13,000,000 tấn chất thải nhựa được đổ ra đại dương; 17,000,000 thùng dầu được sử dụng để sản xuất vật dụng nhựa; 1,000,000 chai nhựa được mua mỗi phút[2].

Thứ hai, RTN có mặt ở khắp mọi nơi từ Bắc cực, Nam cực, dãy núi Hymalaya tới sông suối, lòng đất và không khí, từ những nơi đông dân đến những nơi hẻo lánh. Nó ảnh hưởng đến an toàn và chất lượng thực phẩm, sức khỏe con người, du lịch sinh thái và biến đổi khí hậu. Theo báo cáo của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), hàng năm, với khoảng 8 - 13 triệu tấn rác nhựa bị đổ ra biển, ước tính thiệt hại tới hệ sinh thái lên đến 13 tỷ USD. 100,000 sinh vật biển đã chết vì ô nhiễm RTB.[3] Tới 2025, tỷ trọng rác nhựa và cá biển là 1:3 nhưng dự báo đến năm 2050, tỷ lệ này sẽ là 1:1, tức cứ 1 tấn cá được khai thác thì vớt thêm 1 tấn RTN tương ứng ở đại dương.[4]

Thứ ba, RTN tồn tại bền vững ít nhất 100 năm hoặc có thể đến 5000 năm trong môi trường nên mức độ tác hại môi trường là nghiêm trọng, ảnh hưởng không chỉ lợi ích thế hệ hôm nay mà cả thế hệ mai sau.

Thứ tư, RTN có mối quan hệ chặt chẽ với biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học. RTN bị thiêu hủy có thể đưa vào khí quyển khoảng 1.34 gigatons một năm vào năm 2030 tương đương với lượng khí thải của 295 nhà máy nhiệt than 500 megawat."[5] 

Thứ năm, sự thiếu hụt và thực thi không đầy đủ các biện pháp quản lý, tái chế, tái sử dụng sản phẩm nhựa và ủng hộ việc nghiên cứu, sáng chế các sản phẩm mới thay thế sản phẩm nhựa dùng một lần nhằm ngăn chặn và giảm thiêu ô nhiễm nhựa. 

Luật Quốc tế đã có nhiều Công ước, quy định về đấu tranh, ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm biển có nguồn gốc từ đất liền, như Công ước Paris năm 1974 về ngăn ngừa ô nhiễm biển có nguồn gốc từ đất liền, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), Công ước Stockholm về Các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy năm 2001, Hướng dẫn Montreal về Ô nhiễm biển có nguồn gốc từ đất liền năm 1985, Tuyên bố Washingon và Chương trình hành động toàn cầu về Bảo vệ môi trường biển do nguồn ô nhiễm từ đất liền năm 1995, Công ước London về Ngăn ngừa ô nhiễm từ việc nhận chìm chất thải trên biển (Công ước London) năm 1972, Nghị định thư về Ngăn ngừa ô nhiễm biển do hoạt động đổ chất thải và các vật chất khác năm 1996, Công ước quốc tế về Ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra năm 1973 và Nghị định thư của Công ước năm 1978 (MARPOL 73/78).

Bên cạnh đó, có thể nói rằng, hệ thống luật quốc tế về RTN chưa đầy đủ vì những lý do sau:

Thứ nhất, các Công ước nêu trên mới đề cập chung tới ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền, chưa đề cập nhiều tới các biện pháp ngăn ngừa và kiểm soát RTN, một loại rác thải đặc thù và chiếm tỷ trọng nguy hiểm trong số rác thải từ đất liền ra biển. Phụ lục III của MARPOL 73/78 quy định về việc ngăn ngừa ô nhiễm bởi các chất độc hại được vận chuyển bằng đường biển ở dạng đóng gói, bao gồm các tiêu chuẩn liên quan đến bao bì, tiếp thị, ghi nhãn, tài liệu, xếp hàng và giới hạn số lượng; Phụ lục V quy định về ngăn ngừa ô nhiễm bởi rác thải từ tàu được áp dụng cho tất cả các tàu và điều chỉnh các loại rác khác nhau, việc xả thải từ tàu xuống biển của tất cả các loại nhựa đều bị cấm. Phụ lục I của Công ước Basel về kiểm soát, vận chuyển qua biên giới các phế thải nguy hiểm và việc tiêu hủy chúng năm 1989 liệt kê các loại phế thải nguy hiểm phải được kiểm soát,  bao gồm các nguồn: phế thải y tế từ bệnh viện, trung tâm y tế, trạm xá; phế thải từ sản xuất và pha chiết các sản phẩm dược; các vật liệu rắn hoặc phế thải của vật liệu rắn dễ cháy, vật liệu gây độc hại cho hệ sinh thái; vật liệu hoặc phế thải, nếu bị vứt bừa bãi, sẽ gây ra hoặc có nguy cơ gây ra tác động hại trước mắt hoặc sau này đối với môi trường; phế thải còn lại sau khi đốt các phế thải nội trợ; các phế thải, vì lý do phóng xạ, sẽ phải tuân thủ những hệ thống kiểm soát quốc tế khác, bao gồm cả những văn kiện quốc tế áp dụng riêng biệt cho các vật liệu phóng xạ. Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POP) yêu cầu các bên tham gia, là các quốc gia hoặc các tổ chức kinh tế khu vực hợp nhất, phải nỗ lực trong việc quản lý, giảm thiểu liên tục và tiến tới loại trừ hoàn toàn việc sản xuất và sử dụng các chất POP.

Thứ hai, việc thực thi các Công ước này còn rất khiêm tốn do thiếu nguồn lực, nhận thức chưa tương xứng và các biện pháp cưỡng chế không đủ mạnh.

Thứ ba, các biện pháp hiệu quả đấu tranh chống RTN đã vượt ra khỏi khuôn khổ quản lý chất thải mà cần xem xét mọi khía cạnh tác động của nhựa trong cả vòng đời từ thiết kế, sản xuất, tiêu thủ, tái chế, tái sử dụng, phân hủy.

Thứ tư, nguồn ô nhiễm rác thải, bao gồm cả RTN nhiều nhất là do tiêu dùng, tiếp đến là sản xuất, tái chế trong khi nhận thức của người dân còn thấp, chưa đủ kết hợp với các biện pháp quản lý các ngành công nghiệp, nông nghiệp, các hoạt động sản xuất, tái chế, tái sử dụng để tạo biến chuyển.

Trước tác động tiêu cực của RTN, đã có 127 nước thông qua luật về sử dụng các túi nhựa dùng một lần[6]. Tuy nhiên RTN hay ô nhiễm trắng không chỉ giới hạn trong mỗi quốc gia và đã trở thành mối quan tâm chung của nhân loại. Ngày càng nhiều quốc gia ủng hộ ý tưởng xây dựng một Công ước quốc tế về RTN.

2. Thực trạng ô nhiễm rác thải nhựa ở Việt Nam

Thực hiện chính sách Đổi mới, Việt Nam đã vươn mình, đạt mức phát triển kinh tế khá cáo, trung bình 6-8% trong nhiều năm. Ngành nhựa là một trong những ngành công nghiệp có tăng trưởng cao nhất Việt Nam với mức tăng hàng năm từ 16 - 18%/năm. Trong năm 2018, sản lượng sản xuất ngành nhựa tăng 7%, đạt 8,3 triệu tấn[7], trong đó sản xuất nhựa bao bì chiếm tỷ trọng lớn nhất, đạt 36%. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 2.000 doanh nghiệp nhựa, trong đó 450 doanh nghiệp sản xuất bao bì và túi ni lông khó phân hủy. 

Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm nhựa ở Việt Nam cũng rất lớn. Mức tiêu thụ nhựa bình quân đầu người gia tăng nhanh chóng ở mức 10,6% mỗi năm từ năm 1990 tới năm 2017, tăng từ 3,8 kg/người/năm lên 63 kg/người/năm vào 2017, lên 81 kg/người/năm vào 2018.[8] Tổ chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc (FAO) đã thống kê, năm 2018, Việt Nam đã thải ra hơn 1,8 triệu tấn RTN không được xử lý, chiếm gần 6% lượng RTN trên thế giới. Sông Mê Công chảy qua Việt Nam ra biển đã được xếp vào top 10 con sông ô nhiễm do RTN. Tính riêng lượng rác thải nhựa ra biển, Việt Nam đứng thứ 4 thế giới trong năm 2018, ở mức khoảng 0,50 triệu tấn.

Việt Nam là một trong những quốc gia có tình trạng ô nhiễm RTN lớn nhất thế giới vì các lý do:

Thứ nhất, do sự tiện lợi của đồ nhựa và thói quen sử dụng một lần, các bao bì đóng gói được phát miễn phí tại các cửa hàng nên lượng phát thải nhựa lớn. Túi nylon có lượng rò rỉ tuyệt đối cao nhất (244 kt) cho tới nay và đứng thứ hai về tỷ lệ rò rỉ ra môi trường (12%)[9]. Ngành bao bì đóng góp tới gần 70% tổng lượng rác nhựa rò rỉ ra môi trường, trong khi ngành dệt may đứng thứ hai về lượng rác nhựa rò rỉ theo giá trị tuyệt đối (32 kt)[10]. Rác nhựa từ các ngành thủy sản, y tế và săm lốp chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong lượng rác nhựa rò rỉ tuyệt đối nhưng lại có tỷ lệ rò rỉ rất cao. Tại Việt Nam, mức độ sử dụng cao su tự nhiên cao hơn cao su tổng hợp nên các sản phẩm lốp ô tô chưa gây nên ảnh hưởng môi trường lớn. Song tình hình có thể thay đổi khi Việt Nam sử dụng nhiều hơn lốp cao su tổng hợp theo xu thế chung của thế giới. 

Thứ hai, hệ thống luật pháp Việt Nam quản lý RTN  giống như bất kỳ loại chất thải rắn nào khác, với thẩm quyền bị phân tán cho nhiều cơ quan quản lý khác nhau. Từ 2010 trở về trước, Việt Nam không thể hiện sự quan tâm đặc biệt đối với RTN. Khung pháp lý không hướng đến cách tiếp cận theo vòng đời đối với nhựa mà chủ yếu tập trung vào sản xuất, nhập khẩu phế liệu cho sản xuất và quản lý chất thải. Bao bì không thuộc danh mục các sản phẩm thải bỏ phải thu hồi mặc dù chúng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng chất thải rắn và lượng rò rỉ. Luật và các quy định uỷ quyền cho hiệp hội các nhà sản xuất tổ chức các hoạt động thu hồi, nhưng không bắt buộc mục tiêu thu gom, tái chế, và/hoặc xử lý[11]. Từ 2010 xuất hiện nhiều hơn các văn bản quy định chủ yếu về quản lý chất thải và phế liệu, bao gồm RTN như như Quyết định số 50/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Nghị định số 38/2015-NĐ/CP của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu, Thông tư số 36/2015-TT/BTNMT của Bộ TN&MT về quản lý chất thải nguy hại, Quyết định số 1066 /QĐ-BVHTTD ngày 28/3/2018 của Bộ Văn hóa thể thao và du lịch về các bộ tiêu chí về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở du lịch và dịch vụ tại các khu điểm du lịch. Điều 54 Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2020 quy định: “Tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu sản phẩm, bao bì có giá trị tái chế phải thực hiện tái chế theo tỷ lệ và quy cách tái chế bắt buộc, trừ các sản phẩm, bao bì xuất khẩu hoặc tạm nhập, tái xuất hoặc sản xuất, nhập khẩu cho mục đích nghiên cứu, học tập, thử nghiệm”. Điều.55 Luật quy định nghĩa vụ đóng góp tài chính đối với các bao bì chứa chất độc hại: “Tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu sản phẩm, bao bì chứa chất độc hại, khó có khả năng tái chế hoặc gây khó khăn cho thu gom, xử lý phải đóng góp tài chính để hỗ trợ các hoạt động quy định tại khoản 3 Điều này, trừ sản phẩm xuất khẩu hoặc tạm nhập, tái xuất hoặc sản xuất, nhập khẩu cho mục đích nghiên cứu, học tập, thử nghiệm”. Tuy nhiên, các yêu cầu phân loại rác thải nhựa như một phần quản lý rác thải sinh hoạt tại nguồn không được quy định rõ mà phụ thuộc vào sự tự nguyện của người tiêu dùng sau khi sử dụng. 

Thứ ba, do quy định của luật pháp chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng quản lý RTN thấp. Hiện Việt Nam chưa có số liệu thống kê cụ thể về tỷ lệ thu gom chất thải nhựa mà chỉ có thống kê về tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH), trong đó có chất thải nhựa và túi ni lông. Việc phân loại, thu gom chất thải nhựa có thể tái chế đến nay mới ở mức độ tự phát ở quy mô hộ gia đình, người thu gom rác và nhặt phế liệu tự do. Song tỷ lệ thu gom rất thấp, mới chỉ bắt đầu làm được ở thành phố. Hơn một nửa lượng rác thải nhựa phát sinh ở Việt Nam chưa được thu gom (3,6 Mt/ năm) do nằm ngoài các trung tâm công nghiệp, thành phố, tỷ lệ xả rác cao và do đốt rác lộ thiên.

Tỷ lệ chất thải bao bì, túi ni long trung bình tại bãi chôn lấp CTRSH chỉ chiếm khoảng từ 6 - 8%.[12]

Thứ tư, năng lực tái chế của Việt Nam hạn chế trong khi ngăn chặn việc nhập khẩu rác thải kém hiệu quả vì nhiều doanh nghiệp vẫn coi đó là một nguồn sinh nhai cho các cơ sở tái chế. Từ năm 2013 đến 2017, ngành nhựa Việt Nam nhập khẩu nhựa tái chế ở mức trung bình 91.400 tấn/ năm, đưa Việt Nam đứng thứ tư trong số 10 nước ASEAN về nhập khẩu nhựa tái chế.[13]

Thứ năm, năng lực và cơ sở hạ tầng xử lý RTN của Việt Nam còn hạn chế. Báo cáo của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và Hiệp hội quốc tế về Bảo tồn Môi trường (IUCN) cho thấy một bức tranh tương phản giữa Việt Nam với các nước có cùng điều kiện phát triển. Tại Đông Nam Á, Việt Nam và Thái Lan đều là hai nước có vấn đề đáng quan ngại về RTN. Lượng RTN rò rỉ tương ứng là 452 kt so với 336 kt, rò rỉ theo lưu vực sông và ra biển là 19% và 14% lượng rò rỉ của cả khu vực.[14] Trung bình, Việt Nam và Thái Lan tạo ra lượng rò rỉ RTN ra đại dương 10 lần lớn hơn Kenya và 5 lần hơn Nam Phi, hai nước có lượng rò rỉ RTN lớn nhất ở châu Phi; Việt Nam và Thái Lan cũng ghi nhận lượng rò rỉ trung bình cao hơn 4 kg/thu nhập/năm gấp 3 lần mức trung bình của thế giới.[15] Tại Việt Nam, hơn một nửa số RTN không được thu gom trong khi Thái Lan chỉ là ¼[16]. Điều này cho thấy Việt Nam đang đánh giá thấp việc thu gom, phân loại và xử lý hợp vệ sinh RTN trong khi năng lực thiêu hủy chất thải rắn của Việt Nam là cao hơn trung bình của khu vực 32 kg/capita/năm[17]. Hệ thống sông ngòi chằng chịt của Việt Nam cũng tạo cơ hội cho RTN rò rỉ nhiều ra biển. Trong khi khả năng tái chế chất thải nội địa của Việt Nam là 17% thì thực sự chỉ có 6 % chất thải rắn sinh hoạt được tái chế[18]. Các cơ sở tái chế tập trung cho chất thải nhập khẩu, trong khi chất thải nội địa được tái chế ở các cơ sở địa phương, làng xã nơi ít có điều kiện vệ sinh môi trường. Tại Việt Nam các số liệu thông tin về RTN rải rác, khó thu thập và không đồng bộ cho công tác nghiên cứu, dự báo; trong khi các số liệu về rò rỉ RTN có khá nhiều thì số liệu về tái chế, tái sử dụng còn rất ít và thường phải bổ xung từ những nguồn không chính thức.

Thứ sáu, tính phổ biến và sự đa dạng trong ứng dụng của nhựa đòi hỏi cách tiếp cận tổng hợp để giải quyết ô nhiễm. Song trong nhiều năm, công tác nghiên cứu về RTN của Việt Nam cũng còn rất khiêm tốn. Việt Nam còn chậm triển khai quản lý tổng hợp và ít chú trọng đến các giải pháp giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng từ chất thải.

Ngoài ra, vấn đề lớn nhất của Việt Nam chính là nhận thức của đa số người dân trong việc thu gom, phân loại, vận chuyển và xử lý các chất thải rắn sinh hoạt, đặc biệt là chất thải nhựa và túi ni lông, vẫn còn nhiều hạn chế. Thói quen sử dụng túi ni lông khó phân hủy của người dân vẫn còn phổ biến do chưa nhận thức được những tác hại của việc thải chất thải nhựa đối với môi trường và hệ sinh thái; chưa nhận thức được lợi ích kinh tế của việc phân loại, thu gom và tái chế chất thải nhựa nên tỷ lệ thu gom chất thải nhựa so với lượng phát sinh còn thấp. Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh dịch vụ, sản phẩm có phát sinh chất thải nói chung và chất thải nhựa khó phân hủy vào môi trường chưa thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm trong giảm phát thải và thực hiện tái sử dụng cũng như đẩy mạnh hiệu quả của ngành công nghiệp tái chế[19].

3. Giải pháp nâng cao năng lực quản lý ô nhiễm rác thải nhựa ở Việt Nam

Ngăn ngừa, ứng phó và quản lý ô nhiễm RTN đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết của thế giới và Việt Nam. Việt Nam đã tham gia các Hội nghị quan trọng của Liên hợp quốc liên quan đến môi trường, đặc biệt là Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường con người năm 1972 (UNHCE) và Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển (UNCED) năm 1992, Hội nghị Johannerbug 2012, Rio+20. Việt Nam cũng là thành viên của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, Công ước về Đa dạng sinh học và Công ước Khung về biến đổi khí hậu năm 1992, Nghị định thư về ngăn ngừa ô nhiễm biển do hoạt động đổ chất thải và các vật chất khác năm 1996, Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra năm 1973 và Nghị định thư của Công ước năm 1978 (MARPOL 73/78), Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POP) năm 2001, Hiệp định Hợp tác Phát triển Bền vững Lưu vực sông Mê Công (Hiệp định Mê Công năm 1995). Đây là khung pháp lý quốc tế quan trọng để Việt Nam hợp tác với các nước và ban hành, điều chỉnh các luật quốc gia của mình phù hợp với  luật quốc tế trong lĩnh vực ngăn ngừa và kiểm soát RTN.

Là một quốc gia có bờ biển dài, chịu ảnh hưởng nặng nề của ô nhiễm biển, đặc biệt ô nhiễm rác thải nhựa, Việt Nam đang dần nhận thức và có chuyển biển trong xây dựng chính sách và pháp luật về RTN cũng như tham dự vào các hoạt động của LHQ về phòng chống và ứng phó với “ô nhiễm trắng”. Việt Nam đã nhanh chóng thiết lập cơ sở pháp lý ngăn ngừa và giảm thiểu tác động của ô nhiễm môi trường biển qua Luật Biển Việt Nam năm 2012, Luật BVMT năm 2014, sửa đổi năm 2020, Luật Tài nguyên và Môi trường biển và hải đảo năm 2015, Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030 ban hành năm 2019, Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn 2045 và các văn bản khác. Ngày 16/8/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1407 về Phê duyệt Đề án Việt Nam chủ động chuẩn bị và tham gia xây dựng thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa đại dương. Một trong những hoạt động này là đăng cai Hội nghị quốc tế về Kinh tế đại dương bền vững và thích ứng với Biến đổi khí hậu tháng 12/2021 và do dịch bệnh covid-19 sẽ chuyển sang tháng 5 năm 2022. Hội nghị này sẽ đóng góp cho Nghị quyết của Đại Hội đồng Môi trường Liên hợp quốc (UNEA) về Kinh tế biển xanh[20].

Dự thảo Công ước quốc tế về Ngăn ngừa, ứng phó và quản lý ô nhiễm RTN là một trong những sáng kiến đầu tiên của Việt Nam về bảo vệ môi trường tại Liên hợp quốc trong vai trò đồng tác giả với các nước bị tổn thương nhiều nhất bởi “ô nhiễm trắng”. Việt Nam không thể chậm trễ trước sự xâm lược của “ô nhiễm trắng”. Không một quốc gia nào có thể thờ ơ trước đại dịch ô nhiễm môi trường biển. Không một quốc gia nào có thể yên tâm phát triển khi các nước khác đang bị tác động bởi ô nhiễm môi trường biển, bao gồm RTB. Vì vậy, cần sớm biến nhận thức chung thành một thỏa thuận toàn cầu mới, một công cụ ràng buộc pháp lý quốc tế về ô nhiễm nhựa phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 để ngăn ngừa và giảm thiểu tác động đến môi trường.

Dự thảo Công ước quốc tế về Ngăn ngừa, ứng phó và quản lý ô nhiễm RTN sẽ giúp:

a) Thúc đẩy nền kinh tế toàn cầu tuần hoàn, hợp tác giữa các nước và với khu vực tư nhân, giải quyết vòng đời đầy đủ của nhựa, khuyến khích phát triển, sản xuất và sử dụng các giải pháp thay thế khả thi và bền vững cho nhựa;

b) Kiểm soát và Giảm đáng kể ô nhiễm RTN từ các hoạt động trên đất liền cũng như ô nhiễm từ tàu và ngư cụ thải bỏ;

c) Thiết lập một cơ chế tài chính, cũng như hỗ trợ chuyển giao công nghệ quản lý ngăn ngừa và chế ngự ô nhiễm RTN cho tất cả các quốc gia, đặc biệt các quốc đảo nhỏ đang phát triển, các nước và cộng đồng dễ bị tổn thương.

d) Xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu toàn diện chung về biển và đại dương, trong đó có RTN và có thể chia sẻ, thông tin, tài chính, kinh nghiệm và chuyển giao công nghệ quản lý, tái chế, tái sử dụng RTN công bằng, đầy đủ và hiệu quả.

đ) Thực thi Mục tiêu phát triển bền vững Liên hợp quốc số 14 “bảo tồn và sử dụng bền vững các đại dương, biển và tài nguyên biển”.

Không chỉ chủ động trên trường quốc tế, Chính phủ, các viện nghiên cứu, các doanh nghiệp, các Hiệp đoàn và người lao động, người tiêu thụ phải làm việc cùng nhau, hợp tác chặt chẽ đề ra và thực thi chiến lược và kế hoạch quản lý RTN hiệu quả, giảm thiểu RTN từ bao bì, dệt may, lốp xe, vật liệu xây dựng và các vật liệu khác. Nó đòi hỏi các giải pháp cho cả vòng đòi của nhựa từ thiết kế, sản xuất, sử dụng gia dụng tới tái chế, tái sử dụng và tiêu hủy. Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và nâng cao nhận thức của người dân, đặc biệt của giới trẻ, trong quản lý RTN.

Mục tiêu quản lý tốt và loại trừ RTN vào năm 2045, phù hợp Nghị quyết số 36-NQ/TW của Ban Chấp hành trung ương về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn 2045, cần phải được định ra và tổ chức thực thi hiệu quả để đưa Việt Nam trở thành một nước đi đầu về phòng, chống “ô nhiễm biển trắng” vì  sự phát triển bền vững kinh tế biển của đất nước, vì phồn vinh và lợi ích của thế hệ hôm nay và mai sau./.     

PGS.TS Nguyễn Hồng Thao 

Học viện Ngoại giao

 

[1] Geyer, R., Jambeck, J. R. & Law, K. L. Production, use, and fate of all plastics ever made Supplementary Information. Sci. Adv. 3, 19–24 (2017). 
[2] UNEP, Our planet is drowning in plastic pollution—it's time for change!, https://www.unep.org/interactive/beat-plastic-pollution/.
[3] UNGA, Play it out against plasctic pollution, https://www.un.org/pga/73/playitout/.
[4] WWF, No Plastic in Nature, Asessing plastic ingestion from Nature to People, 2019, tr.6.
[5] Xem chú thích 3.
[6] Andrea Thompson, U.N. General Assembly President Sets Her Sights on Plastic Pollution, Scientific American,  May 10, 2019. https://www.scientificamerican.com/article/u-n-general-assembly-president-sets-her-sights-on-plastic-pollution/.
[7] Hiệp hội Nhựa Việt Nam, 2019.
[8] IUCN-EA-QUANTIS (2020). Hướng dẫn quốc gia về Xác định điểm nóng ô nhiễm nhựa và Xây dựng hành động. Báo cáo quốc gia Việt Nam. 
[9] Vietnam Plastics Association. Tổng quan ngành nhựa Việt Nam. Available at http://vpas.vn/gioi-thieu/tong-quan-nganh.html (accessed 1 March 2019); Vietnam Industry Research and Consultancy (2018), Vietnam Plastics Comprehensive Report Q2/2018
[10] Vietnam Plastics Association. Tổng quan ngành nhựa Việt Nam. Available at http://vpas.vn/gioi-thieu/tong-quan-nganh.html (accessed 1 March 2019); Vietnam Industry Research and Consultancy (2018), Vietnam Plastics Comprehensive Report Q2/2018
[11] Phuong, N. H. (2020). The legal, policy and institutional frameworks governing marine plastics in Viet Nam. Bonn, Germany: IUCN Environmental Law Centre. tr. 18.
[12] Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT), Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2019 - Chuyên đề Quản lý chất thải rắn sinh hoạt, http://dwrm.gov.vn/uploads/news/2020_11/bao-cao-hien-trang-moi-truong-2019.pdf, tr.47-48.
[13] Vietnam Industry Research and Consultancy (2018), Vietnam Plastics Comprehensive Report Q2/2018. http://vpas.vn/gioi-thieu/tong-quan-nganh.html.
[14] IUCN, Plastic Pollution Hotspotting and Shrping Action, Regional Results from Eastern and Southern Africa, the Mediterranean, and Southeast Asia, 2020.
[15] Jambeck J.R., R. Geyer, C. Wilcox, T. R. Siegler, M. Perryman, A. Andrady, R. Narayan, K. L. Law (2015) Plastic waste inputs from land into the ocean. Science 347, 768 - 771.
[16] Xem chú thích 15.
[17] Xem chú thích 15.
[18] Xem chú thích 15.
[19]  Bộ TNMT, Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2019, tr. 47. Xem chú thích 13.
[20] A new treaty to tackle plastic pollution? https://onu-geneve.delegfrance.org/A-new-treaty-to-tackle-plastic-pollution 
  • Tags: