Nhà nước Việt Nam có toàn quyền và thực hiện đầy đủ quyền lực được nhân dân giao phó

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có đầy đủ quyền lực trong tổ chức và hoạt động, thực hiện tốt vai trò quản lý nhà nước theo sự ủy quyền của nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước hoàn toàn không làm cho Nhà nước giảm sút quyền lực, trái lại bảo đảm cho Nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, thật sự là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Bài viết phân tích các cơ sở pháp lý và thực tiễn minh chứng cho sự thực quyền của Nhà nước Việt Nam.

Trong các tài liệu phát tán trái phép và trên mạng xã hội, nhất là vào dịp bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp, khi Quốc hội họp, một số phần tử phản động và đối tượng bất mãn, tiêu cực, cơ hội chính trị tung ra luận điệu cho rằng, ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định, áp đặt tất cả, Nhà nước chỉ tồn tại một cách hình thức, đơn thuần tuân theo sự chỉ đạo của Đảng, mà không có vai trò và quyền lực đầy đủ. Vậy, Nhà nước Việt Nam hiện nay có thật sự là cơ quan có thực quyền, thực hiện quyền lực nhà nước do nhân dân giao phó, ủy quyền; Đảng lãnh đạo có làm mất vai trò, quyền lực của các cơ quan nhà nước không?

1. Nhà nước có toàn quyền trong tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, với sự ủng hộ tuyệt đối của nhân dân

Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khẳng định: Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước; nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước; v.v.. Bản chất, đặc trưng đó được thể hiện rõ trong toàn bộ tổ chức và hoạt động của Nhà nước.

Trong việc thành lập, kiện toàn các cơ quan nhà nước

Việc thành lập, kiện toàn các cơ quan nhà nước được quy định rõ trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Kiểm toán nhà nước, Luật Tổ chức chính quyền địa phương… Quá trình thực hiện được các cơ quan có thẩm quyền tiến hành chặt chẽ, nghiêm túc, đúng quy trình, thủ tục. Đảng chỉ đề ra chủ trương, định hướng xây dựng các cơ quan nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm các cơ quan nhà nước thực hiện đúng và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật; phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp… mà không can thiệp, quyết định trực tiếp vào công tác tổ chức của các cơ quan nhà nước.

Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Trên thực tế, các kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND được tiến hành đúng theo Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, theo sự tổ chức, chỉ đạo và hướng dẫn của Hội đồng bầu cử quốc gia do Quốc hội thành lập. Các công dân có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của pháp luật thực hiện quyền ứng cử; các nhân sự đưa ra để cử tri bầu đều do Ủy ban MTTQ Việt Nam hiệp thương giữa tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội qua nhiều vòng; người được dự kiến giới thiệu được đa số cử tri nơi cư trú đồng ý; đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các nhiệm kỳ đều do cử tri bầu trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các đảng viên ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND đều phải được sự đồng tình của đa số cử tri nơi cư trú, được Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp xem xét, hiệp thương giới thiệu.

Việc vận động bầu cử được tiến hành dân chủ, công khai, bình đẳng, đúng pháp luật; các tổ chức phụ trách bầu cử và thành viên của các tổ chức này không được vận động cho người ứng cử. Trong vận động bầu cử, các hoạt động lợi dụng vận động bầu cử để tuyên truyền trái với Hiến pháp và pháp luật hoặc làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác; lạm dụng chức vụ, quyền hạn để sử dụng phương tiện thông tin đại chúng trong vận động bầu cử; sử dụng hoặc hứa tặng, cho, ủng hộ tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất để lôi kéo, mua chuộc cử tri bị nghiêm cấm.

Trong việc bầu, phê chuẩn, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh chủ chốt của cơ quan nhà nước các cấp

Cùng với việc quyết định việc thành lập, kiện toàn các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội thực hiện và phát huy quyền do luật định để bầu, phê chuẩn, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh theo quy định của Hiến pháp; các đại biểu HĐND thực hiện và phát huy quyền do luật định để vừa quyết định thành lập các cơ quan của HĐND, vừa bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm chủ tịch và các thành viên UBND. Cấp ủy đảng ở từng cấp chỉ thực hiện việc giới thiệu cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín để đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND bầu cử theo quy định của pháp luật, không hề áp đặt.

Trước khi bỏ phiếu bầu cử, phê chuẩn, các đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND đều xem xét, thảo luận kỹ lưỡng từng nhân sự và bỏ phiếu kín, quyết định theo đa số. Những người đảm nhiệm chức danh do Quốc hội, HĐND bầu, phê chuẩn định kỳ được lấy phiếu tín nhiệm và bị Quốc hội, HĐND bãi nhiệm khi vi phạm tư cách đại biểu, không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Các cán bộ được cấp ủy đảng điều động, luân chuyển đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý ở địa phương đều chỉ được giao chức vụ đảng, sau đó cấp ủy quản lý cán bộ đề nghị HĐND bầu cử vào chức danh lãnh đạo cơ quan chính quyền theo quy định của pháp luật.

Những đảng viên được Quốc hội và HĐND bầu, phê chuẩn giữ các chức vụ lãnh đạo cơ quan nhà nước đều chịu sự quản lý chặt chẽ của tổ chức đảng, không chỉ chịu trách nhiệm trước pháp luật và cơ quan nhà nước, mà còn phải chịu trách nhiệm trước Đảng, chịu sự ràng buộc nghiêm khắc của kỷ luật đảng. Người có vi phạm pháp luật bị tổ chức đảng thi hành kỷ luật đảng và bị xử lý theo quy định của pháp luật, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Chẳng hạn, trong thời gian qua, đã có một số cấp ủy viên là cán bộ lãnh đạo cơ quan nhà nước bị xử lý kỷ luật đảng một cách nghiêm khắc, bị Quốc hội, HĐND miễn nhiệm, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thi hành kỷ luật, thậm chí bị xử lý hình sự. Cấp ủy đảng chủ động xử lý kỷ luật đảng đối với cán bộ đảng, đảng viên trước và đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý kỷ luật hành chính ở mức tương xứng hoặc truy tố.

Trong hoạt động của các cơ quan nhà nước

Về hoạt động lập hiến, lập pháp. Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp do Quốc hội toàn quyền quyết định. Hầu hết các dự thảo bộ luật, luật đều do Chính phủ trình, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội thẩm định, các đại biểu Quốc hội thảo luận qua một số kỳ họp rồi biểu quyết thông qua, Chủ tịch nước ký lệnh công bố. Đối với những vấn đề lớn, liên quan đến các tầng lớp nhân dân, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị cho ý kiến định hướng, còn việc quyết định hoàn toàn do Quốc hội tự quyết. Trên thực tế, đã có trường hợp xét thấy việc chuẩn bị dự thảo luật chưa đủ căn cứ, Quốc hội quyết định dừng việc thảo luận, thông qua, như dự thảo Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.

Trong quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, địa phương, tại các kỳ họp Quốc hội, HĐND, các nội dung thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Quốc hội, HĐND đều được đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND bàn bạc kỹ lưỡng và quyết định. Các chủ trương nêu trong nghị quyết của Đảng về những vấn đề lớn trong lĩnh vực đối nội, đối ngoại là cơ sở để Quốc hội, HĐND nghiên cứu vận dụng và quyết định theo thẩm quyền. Trên thực tế, một số chủ trương cụ thể của Bộ Chính trị về kinh tế - xã hội khi đưa ra Quốc hội được các đại biểu Quốc hội thảo luận rất sôi nổi, với nhiều ý kiến khác nhau; sau đó Bộ Chính trị tiếp thu ý kiến của đa số đại biểu Quốc hội để tiếp tục nghiên cứu, chỉ đạo hoàn thiện trước khi trình Quốc hội.

Ở các địa phương, nghị quyết của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy cũng chỉ nêu các chủ trương, phương hướng lớn, còn các chỉ tiêu, chương trình, kế hoạch, biện pháp và điều kiện thực hiện do HĐND xem xét, quyết định.

Trong hoạt động giám sát, Quốc hội có và thực hiện đầy đủ quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước tại các kỳ họp Quốc hội, trong đó, có việc xem xét các báo cáo của Chính phủ; chất vấn các thành viên Chính phủ tại kỳ họp Quốc hội và kỳ họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội; bằng các đoàn giám sát của Quốc hội tại các ngành, địa phương; v.v.. HĐND các cấp cũng thực hiện quyền giám sát đối với UBND cùng cấp. Các thành viên Chính phủ là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng phải thực hiện nghiêm túc việc báo cáo, trả lời chất vấn trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội theo đúng quy định. Tương tự, thành viên UBND và người đứng đầu các cơ quan chuyên môn thuộc UBND là cấp ủy viên phải thực hiện nghiêm túc việc báo cáo, trả lời chất vấn trước HĐND cùng cấp.

Về hoạt động hành pháp, việc tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật, thực hiện các nghị quyết của Quốc hội do Chính phủ đảm nhiệm theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao. Chính phủ xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và các chương trình, kế hoạch, đề án công tác để thi hành Hiến pháp và pháp luật, thực hiện các quyết định của Quốc hội. UBND các cấp xây dựng và quyết định các chương trình, kế hoạch công tác theo thẩm quyền để thi hành pháp luật, thực hiện các nghị quyết của HĐND và các nhiệm vụ do Chính phủ và UBND cấp trên giao. Các cơ quan hành pháp tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, Quốc hội, HĐND và cơ quan nhà nước cấp trên về chất lượng, hiệu quả hoạt động và chất lượng nội bộ của cơ quan mình.

Về hoạt động tư pháp, các cơ quan trong lĩnh vực tư pháp có đầy đủ quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật trong hoạt động bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Trong hoạt động xét xử của tòa án nhân dân các cấp, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và tuân theo pháp luật; không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm. Việc truy tố, điều tra, xét xử thực hiện theo nguyên tắc đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không phân biệt đối xử, không nương nhẹ với cán bộ đảng và đảng viên; những người vi phạm pháp luật đều bình đẳng trước pháp luật. Cấp ủy đảng các cấp không quyết định những vấn đề cụ thể thuộc thẩm quyền của các cơ quan trong lĩnh vực tư pháp, nhất là không quyết định tội danh, mức án.

Trước yêu cầu phòng, chống tham nhũng, Hội nghị Trung ương 5 khóa XI (tháng 5-2012) đã thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, do Tổng Bí thư làm Trưởng ban (nay là Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực). Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII (tháng 5-2022) quyết định thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Tuy nhiên, các ban chỉ đạo này chỉ thống nhất về chủ trương, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện, không làm thay, can thiệp trực tiếp vào công việc của các cơ quan bảo vệ và thi hành pháp luật.

Trên thực tế, trong toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước ở các cấp, Đảng không ra chỉ thị cho cơ quan nhà nước và không yêu cầu cơ quan nhà nước phải báo cáo công tác với Đảng, mà Đảng chỉ thị cho tổ chức đảng (đảng đoàn, ban cán sự đảng, cấp ủy đảng) và cán bộ đảng trong cơ quan nhà nước. Đảng cũng chỉ kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên trong cơ quan nhà nước, không trực tiếp kiểm tra cơ quan nhà nước.

2. Đảng luôn tôn trọng Nhà nước, lãnh đạo để Nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả cao hơn

Khẳng định rõ ràng và nhất quán quan điểm: ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Đảng xác định rõ Nhà nước là cơ quan được nhân dân bầu ra, ủy quyền để thực hiện chức năng tổ chức, quản lý xã hội dưới sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân và phục vụ nhân dân.

Báo cáo về dự thảo Hiến pháp năm 1980 tại Hội nghị Trung ương 8 khóa IV đã khẳng định: “nhân dân làm chủ bằng nhà nước,… đương nhiên, làm chủ bằng nhà nước là chủ yếu”(1). Đồng thời, Đảng khẳng định, Đảng không phải là cơ quan nhà nước, không có quyền lực nhà nước: “Đảng là lực lượng lãnh đạo chứ không phải là cơ quan quyền lực nhà nước hay cơ quan quản lý, Đảng không làm công việc quản lý nhà nước”(2). Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, các tổ chức, cơ quan đảng các cấp không được áp đặt, làm thay những công việc thuộc thẩm quyền của Nhà nước. Hơn nữa, Đảng thường xuyên yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để khắc phục những biểu hiện bao biện, làm thay, can thiệp trực tiếp vào công việc của các cơ quan nhà nước.

Việc Đảng khẳng định và thúc đẩy xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã thể hiện rõ quan điểm, lập trường tôn trọng Nhà nước của Đảng. Nhà nước pháp quyền tức là khẳng định Hiến pháp và pháp luật có vị trí tối thượng, nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tất cả các tổ chức - kể cả tổ chức đảng, cơ quan nhà nước - và mọi công dân đều phải đặt mình dưới pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.

Việc Đảng Cộng sản Việt Nam tác động, chi phối Nhà nước về công tác nhân sự và việc xây dựng chính sách, pháp luật là điều bình thường, giống như các đảng cầm quyền ở tất cả các nước trên toàn thế giới. Ở các nước có chế độ đa đảng, đảng chính trị nào có đa số đảng viên được bầu vào quốc hội, nghị viện, trở thành đảng cầm quyền, thì đảng đó có quyền đứng ra lập chính phủ, cử người của đảng nắm giữ các vị trí chủ chốt của chính phủ. Thông thường, chủ tịch đảng cầm quyền đương nhiên là thủ tướng chính phủ, thủ tướng chính phủ chỉ định các bộ trưởng mà không cần qua bầu cử, bởi nếu đưa ra bầu thì với đa số đại biểu quốc hội, nghị sĩ là đảng viên của đảng cầm quyền, chắc chắn người của đảng sẽ đắc cử. Về chính sách, các dự án do nhóm nghị sĩ của đảng cầm quyền chiếm đa số đưa ra khi bỏ phiếu cũng dễ dàng được thông qua.

Ở Việt Nam, với đa số đại biểu Quốc hội là đảng viên, thông qua các đại biểu này, Đảng lãnh đạo việc thành lập các cơ quan nhà nước ở Trung ương, thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; định hướng việc Quốc hội, Chính phủ thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách, chương trình, kế hoạch công tác và tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách, chương trình, kế hoạch công tác đó. Cấp ủy cấp dưới cũng lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ và việc xây dựng chương trình, kế hoạch công tác của cơ quan chính quyền cùng cấp.

Tất cả các công việc đó đều được thực hiện theo đúng trình tự, quy định của pháp luật và có sự giám sát của nhân dân; các đại biểu Quốc hội, HĐND thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm theo quy định của pháp luật và sự ủy thác của cử tri đã bầu mình. Việc Đảng lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, thành lập, kiện toàn các cơ quan của Quốc hội, HĐND chính là thực hiện trách nhiệm do Hiến pháp đã quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Dĩ nhiên, trong việc này, Đảng chỉ định hướng về quan điểm, nguyên tắc, chủ trương để bảo đảm các công việc được thực hiện đúng pháp luật, phát huy cao nhất quyền làm chủ của nhân dân, chứ Đảng không can thiệp trực tiếp. Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND hoàn toàn do cử tri quyết định. Việc thành lập, kiện toàn các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân cũng do đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND thay mặt nhân dân quyết định.

Hơn nữa, Đảng còn lãnh đạo MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội, thông qua các tổ chức đảng, đội ngũ đảng viên và thông qua các cơ quan truyền thông của Đảng để động viên cử tri và nhân dân hăng hái đi bầu cử, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của công dân, tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.

Đảng cũng lãnh đạo MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội phối hợp công tác với cơ quan nhà nước trong động viên các tầng lớp nhân dân chấp hành pháp luật, thực hiện đúng chính sách và hăng hái thực hiện hiệu quả các chương trình, kế hoạch do các cơ quan nhà nước đề ra; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, nhất là bằng hoạt động giám sát và phản biện xã hội đối với các cơ quan nhà nước, giám sát hoạt động của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức công tác trong các cơ quan nhà nước; tham gia xây dựng Nhà nước thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Việc cấp ủy đảng nêu ý kiến chỉ đạo về chủ trương xử lý đối với một số vụ án đặc biệt nghiêm trọng có liên quan đến an ninh chính trị, đối ngoại, đến cán bộ diện cấp ủy quản lý, hoặc theo đề nghị của tòa án nhân dân chính là để bảo đảm việc xử lý vừa đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, vừa không gây ra những phức tạp không cần thiết về chính trị, đối ngoại, các vấn đề dân tộc, tôn giáo; đồng thời các cơ quan bảo vệ pháp luật không phải e ngại việc người vi phạm là cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Trong khi tiếp tục khẳng định Đảng có quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Hiến pháp năm 2013 cũng ràng buộc các trách nhiệm của Đảng. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 khẳng định Đảng là: Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Chính Trung ương Đảng đã lãnh đạo để Quốc hội đề ra những quy định mang tính ràng buộc đối với Đảng; khi đã ghi trong Hiến pháp, tức là đã được hiến định, Đảng có nghĩa vụ nghiêm chỉnh chấp hành.

Về phần mình, Đảng đảm trách vai trò lãnh đạo Nhà nước để xây dựng Nhà nước thật sự là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả cao, phục vụ nhân dân, luôn giữ vững được niềm tin của nhân dân. Đảng ý thức rõ đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề, nhất là trong điều kiện Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền. Nếu các cơ quan nhà nước hoạt động kém hiệu quả, không hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được giao, cán bộ, công chức cơ quan nhà nước vi phạm pháp luật, quan liêu, xa dân, không kịp thời giải quyết các vấn đề bức xúc của nhân dân thì cấp ủy, tổ chức đảng phải có trách nhiệm.

Đảng phải không ngừng nâng cao trình độ trí tuệ để đề ra được đường lối, chủ trương đúng đắn; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, trong các cơ quan nhà nước; phát huy đầy đủ, hiệu quả vai trò của MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước, nhất là trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, kiểm soát quyền lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; v.v.. 

Cùng với việc phòng ngừa và khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo đối với Nhà nước, Đảng luôn yêu cầu các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên tránh can thiệp không đúng chức năng, thẩm quyền vào hoạt động của các cơ quan nhà nước. Đảng chủ động giáo dục, yêu cầu các tổ chức đảng và đảng viên công tác trong các cơ quan nhà nước các cấp phải tôn trọng Nhà nước, tiên phong, gương mẫu trong thực thi công vụ và chấp hành nghiêm túc Hiến pháp và pháp luật, chính sách, các quy định của Nhà nước. Đảng nghiêm túc nhận trách nhiệm trước nhân dân về những hạn chế, khuyết điểm của mình, trong đó có hạn chế trong lãnh đạo Nhà nước và những tiêu cực của cán bộ, đảng viên công tác trong các cơ quan nhà nước.

Chẳng hạn, tại Đại hội X, Đảng đã chỉ ra những khuyết điểm, yếu kém trong hoạt động lãnh đạo của Đảng và khẳng định: “Những khuyết điểm nói trên, trước hết thuộc về trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp là của Bộ Chính trị. Ban Chấp hành Trung ương xin tự phê bình nghiêm túc về những khuyết điểm của mình trước Đại hội và trước nhân dân”(3). Tại Đại hội XI của Đảng, “Ban Chấp hành Trung ương xin tự phê bình trước Đại hội và trước nhân dân về những khuyết điểm, yếu kém đã làm hạn chế những thành tựu lẽ ra có thể đạt được nhiều hơn”(4). Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 6 khóa XI ngày 15-10-2012, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã nghiêm túc tự phê bình và thành thật nhận lỗi trước Ban Chấp hành Trung ương về những yếu kém, tồn tại trong công tác xây dựng Đảng, những suy thoái, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên... Ban Chấp hành Trung ương nghiêm túc tự phê bình và thành thật nhận lỗi trước toàn Đảng, toàn dân”(5).

Đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật và đạo đức công vụ, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm những việc sai trái vì lợi ích cá nhân và “nhóm lợi ích”, Đảng yêu cầu và chỉ đạo các cơ quan nhà nước xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng người, đúng vi phạm, đúng pháp luật, Đảng không bao che cho đảng viên của mình. Trong những năm gần đây, Đảng đã nghiêm khắc thi hành kỷ luật đảng và lãnh đạo các cơ quan hành chính xử lý kỷ luật hành chính và tổ chức, các cơ quan bảo vệ pháp luật khởi tố, truy tố, xử án với mức án nghiêm khắc đối với cả ủy viên Bộ Chính trị, một số Ủy viên Trung ương Đảng là Phó Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thứ trưởng, chủ tịch, phó chủ tịch HĐND và chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp tỉnh, kể cả người đã nghỉ hưu. Thái độ nghiêm khắc đó của Đảng đã góp phần củng cố lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng đối với cả xã hội nói chung, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói riêng.

Kết quả tỷ lệ cử tri đi bầu cùng với kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp các nhiệm kỳ, trong đó, nhiều cán bộ đảng các cấp trúng cử với tỷ lệ phiếu cao; sự nghiêm túc chấp hành pháp luật, chính sách và hăng hái, sáng tạo trong các phong trào thi đua yêu nước là minh chứng hùng hồn cho điều đó, tự nó đã bác bỏ những luận điệu xuyên tạc vô căn cứ của các thế lực thù địch và phần tử xấu về quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với Nhà nước và nhân dân.

_________________

(1) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.41, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.269.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.50, Sđd, 2007, tr.503.

(3) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.65, Sđd, 2018, tr.176.

(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.180.

(5) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2012, tr.184-185.

TS TRẦN THÁI HÀ

Khoa Nhà nước và Pháp luật,

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

...
  • Tags: