- Đặt vấn đề
Sự phát triển của thương mại điện tử (TMĐT) trên thế giới đã làm thay đổi phương thức kinh doanh, thay đổi mạnh mẽ các giao dịch truyền thống và đem lại những lợi ích to lớn cho các doanh nghiệp, cho người tiêu dùng và cho toàn xã hội. Thương mại điện tử đã xóa bỏ các rào cản về không gian, thời gian trong hoạt động thương mại, tạo nên một thị trường toàn cầu rộng lớn. Đối với Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp củng cố thị trường nội địa, tiếp cận thị trường nước ngoài, tạo ra các cơ hội kinh doanh xuyên biên giới. Trong bối cảnh này TMĐT trở thành công cụ cạnh tranh vô cùng hiệu quả mà một số quốc gia đã áp dụng thành công.
Là một quốc gia đi sau trên con đường phát triển, nền kinh tế Việt Nam đang rất cần phát triển nhanh và mạnh các lĩnh vực trong đó có TMĐT, tận dụng những lợi thế của TMĐT để thúc đẩy thị trường trong nước phát triển đồng thời mở rộng thị trường ra thế giới.Tham gia hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới đồng nghĩa với việc Việt Nam ngày càng phải cạnh tranh gay gắt hơn với các nền kinh tế khác trên thế giới, bao gồm cả những quốc gia đi trước chúng ta hàng trăm năm phát triển. Thế nhưng, nếu như biết cách tận dụng lợi thế mà TMĐT mang lại, các doanh nghiệp, các nhà sản xuất Việt Nam thậm chí có khả năng cạnh tranh ngang hàng với các doanh nghiệp,các nhà sản xuất khác trên thế giới. Tuy nhiên khi tham gia TMĐT trong một môi trường hội nhập toàn cầu như hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều thách thức đặt ra trong TMĐT và không thể tự mình giải quyết được cácvấn đề này. Chính vì vậy với vai trò là chủ thể quản lý, Nhà nước cần điều tiết, can thiệp vào các quan hệ trong TMĐT, xây dựng các chính sách ổn định và thuận lợi cho sự phát triển của TMĐT ở Việt Nam. Bên cạnh đó, cần siết chặt hơn nữa quản lý kinh doanh trên sàn TMĐT.
- Thực trạng công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực Thương mại điện tử
Hiện nay, trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam đã và đang dần hoàn thiện một số văn bản liên quan đến hoạt động này. Đối với thương nhân: Nghị định số 52/2013/NĐ-CP của Chính phủ về TMĐT và Nghị định số 85/2021/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 52/2013 đã quy định cụ thể về các quyền và nghĩa vụ của thương nhân về các hoạt động kinh doanh buôn bán, bảo mật thông tin cá nhân, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Cũng theo Nghị định số 85/2021, từ ngày 01/01/2022, ngoài các hoạt động kinh doanh trên các sàn giao dịch TMĐT thông qua website chính thống, thương nhân còn được thực hiện hoạt động thương mại trên các nền tảng mạng xã hội như: Facebook, Zalo, Instagram,... Đối với người tiêu dùng: Để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Điều 68, 69, 70, 71, 72 Nghị định 52/2013 đã đưa ra một số quy định cụ thể về trách nhiệm, các chính sách bảo vệ thông tin người tiêu dùng, sử dụng thông tin của người tiêu dùng. Bên cạnh đó đã có một số quy định về các hình thức xử phạt, từ xử phạt hành chính, phạt tiền đến truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các trường hợp vi phạm nặng. Mặc dù Nghị định 52/2013 có quy định về tiến trình thực hiện giao kết hợp đồng trên website nhưng nhìn chung người tiêu dùng thường không có thông tin đầy đủ về sản phẩm, nên rất có thể dẫn tới tình trạng thông tin bất cân xứng, gây ra thiệt hại đối với người tiêu dùng. Đối với thuế trong TMĐT: Hiện nay, nhằm đảm bảo quản lý hiệu quả, các chính sách thuế đối với TMĐT ở Việt Nam được thực hiện thông qua một số sắc thuế hiện hành như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu. Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về nguồn thu thuế từ TMĐT, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 85/2021/NĐ-CP về TMĐT, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 40/2021/TT-BTC ngày 01/6/2021 quy định rõ trách nhiệm của người quản lý trên sàn TMĐT. Theo đó, các cơ quan quản lý nhà nước sẽ được cung cấp đầy đủ và kịp thời các thông tin về giao dịch trên sàn TMĐT, qua đó sẽ có các biện pháp thu thuế đúng và đủ theo quy định của pháp luật.
Nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động TMĐT, đảm bảo sự phát triển bền vững của TMĐT và tạo cơ sở cho các hoạt động QLNN, Quốc hội đã ban hành nhiều bộ luật quan trọng. Một số bộ luật quan trọng có thể kể đến như: Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật Viễn thông, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật An ninh mạng,... Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành hệ thống các nghị định hướng dẫn luật, các Bộ liên quan ban hành các thông tư hướng dẫn thực hiện, nhằm cụ thể hóa các nội dung của luật và áp dụng luật vào thực tiễn. Việc xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật kịp thời và bám sát với thực tiễn phát triển của nền kinh tế nói chung và đối với TMĐT nói riêng đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của TMĐT trong những năm qua.
Trong những năm qua, công tác quản lý nhà nước về TMĐT đã có bước thay đổi mạnh mẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhanh và ổn định của TMĐT tại Việt Nam. Song, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý nhà nước về TMĐT vẫn còn một số tồn tại sau đây:
Bản chất lĩnh vực TMĐT là một lĩnh vực phát triển rất nhanh cùng với sự phát triển của mạng Internet, chính vì lẽ đó mà mỗi quốc gia cần có chiến lược phát triển dài hạn cho vấn đề này. Hiện nay, Việt Nam chưa xây dựng được chiến lược phát triển TMĐT quốc gia mà chỉ xây dựng kế hoạch phát triển cho từng giai đoạn cụ thể (thường là 5 năm). Do vậy, sự phát triển của TMĐT thiếu sự đồng bộ và định hướng lâu dài.
Về xây dựng chính sách và ban hành pháp luật về TMĐT. Trong những năm qua, các cơ quan QLNN đã ban hành nhiều chính sách và pháp luật về TMĐT nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Hệ thống pháp luật tuy nhiều nhưng có sự chồng chéo nên khi áp dụng trong thực tiễn gặp nhiều vướng mắc. Sự thay đổi nhanh chóng của kinh tế số khiến cho một số quy định pháp luật không theo kịp. Ví dụ như: vấn đề quản lý và thu thuế đối với các hoạt động thương mại trực tuyến, nhất là các hoạt động xuyên biên giới; vấn đề bảo vệ người tiêu dùng; việc xử lý các tranh chấp, xung đột trong các hoạt động kinh doanh trên môi trường số. Các chính sách đầu tư phát triển nguồn nhân lực và phát triển hạ tầng viễn thông chưa đáp ứng được như cầu thực tiễn.
Về tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển TMĐT, các hoạt động truyền thông về TMĐT được triển khai khá đa dạng nhưng hiệu quả chưa cao. Doanh nghiệp và người dân chưa hiểu rõ các quy định cũng như yêu cầu khi tham gia vào giao dịch trên sàn TMĐT, dẫn tới gặp nhiều khó khăn và rủi ro khi tham gia giao dịch. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, giữa Trung ương và địa phương chưa thực sự chặt chẽ. Do vậy, khi triển khai các chương trình, dự án về TMĐT còn có sự chồng chéo và kém hiệu quả.
Về hoạt động kiểm soát TMĐT, các quy định, cơ chế thanh tra đối với TMĐT còn khá lỏng lẻo. Số lượng cũng như năng lực đội ngũ thanh tra còn hạn chế. Các hoạt động thanh tra, kiểm tra vẫn theo định kỳ và tần suất còn thấp, còn thiếu cơ chế giám sát trực tuyến các hoạt động trên môi trường điện tử; mức độ xử lý vi phạm còn tương đối nhẹ, chưa đủ sức răn đe đối với các doanh nghiệp tham gia TMĐT. Một trong những khó khăn cho cơ quan chức năng trong kiểm soát hàng hóa kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử là việc vận chuyển qua bưu chính. Theo quy định hiện nay, cơ quan bưu chính và các doanh nghiệp làm dịch vụ chuyển phát thay mặt cho khách hàng kê khai hàng hóa và làm các thủ tục hải quan. Vì vậy, khi phát hiện bưu phẩm có vi phạm, truy tìm người chịu trách nhiệm rất khó vì người gửi thường dùng địa chỉ giả; còn người nhận khi biết đó là hàng cấm hoặc phải đóng thuế cao thì từ chối nhận. Ðối với hàng hóa vận chuyển trong nước bằng đường hàng không thì chỉ bị kiểm tra ở đầu nhập hàng và đầu cuối trả hàng, không bị kiểm tra trong quá trình vận chuyển như đường bộ...
- Một số giải pháp phát huy công tác quản lý nhà nước về thương mại điện tử tại Việt Nam
Một là, cần xây dựng chiến lược Phát triển TMĐT quốc gia phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Chiến lược cần có tính định hướng trong dài hạn, trong 10 năm, 20 năm và mang tính tổng quát, đưa ra những dự báo dài hạn về triển vọng phát triển của TMĐT trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, chiến lược cần bám sát thực tiễn, sử dụng các phương pháp khoa học, đảm bảo tính khả thi cao và có sự tham khảo của các quốc gia phát triển về TMĐT. Nói không với chủ quan về các tình huống có thể xảy ra trong hoạt động TMĐT, quản trị rủi ro trên hành trình phát triển các nền tảng TMĐT tại Việt Nam. Bên cạnh đó, gắn liền chiến lược phát triển TMĐT với phát triển kinh tế số và phát triển bền vững quốc gia.
Hai là, hoàn thiện chính sách và pháp luật về TMĐT. Nhà nước cần tập trung hoàn thiện hơn các quy định về công bố thông tin trên website TMĐT, quy định quản lý thông tin và chất lượng hàng hóa trên các sàn giao dịch TMĐT, đặc biệt chú trọng đến trách nhiệm của thương nhân, tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ và bán hàng hóa dịch vụ trên sàn TMĐT. Nhằm thực hiện thu thuế đúng và đủ, cần đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu tổng thể về hoạt động TMĐT trên thị trường. Đối với TMĐT liên quan đến các giao dịch xuyên biên giới cần xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với thông lệ quốc tế, chống thất thu thuế. Tiếp tục xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho công chức thuế về TMĐT và công nghệ thông tin nhằm phục vụ công tác thanh tra, giám sát.
Bà là, cần có các chính sách đầu tư dài hạn về đào tạo nguồn nhân lực, tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo về TMĐT. Đẩy mạnh các hoạt động đào tạo chính quy ở các bậc đại học, cao đẳng về TMĐT nhằm tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho TMĐT. Bên cạnh đó, tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn và mở các lớp tập huấn về TMĐT, tổ chức các hội nghị, hội thảo nhằm tuyên truyền và phổ biến các kiến thức TMĐT cơ bản nhất cho các cá nhân và doanh nghiệp.
Bốn là, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển TMĐT. Cần đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền và phổ biến về TMĐT tới người tiêu dùng và doanh nghiệp; đào tạo, hỗ trợ nâng cao trình độ, khả năng triển khai TMĐT đối với các doanh nghiệp. Tiếp tục xây dựng và triển khai các chương trình phát triển TMĐT phù hợp với tình hình thực tiễn trong nước và xu hướng phát triển TMĐT trên thế giới. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và xu hướng phát triển kinh tế số, Việt Nam cần tăng cường đẩy mạnh các kênh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực TMĐT, cụ thể như: tham gia xây dựng khung khổ pháp lý quốc tế về TMĐT, nghiên cứu pháp luật, kinh nghiệm các quốc gia có TMĐT phát triển. Cần có cơ chế trong phối hợp tổ chức thực hiện của cá đơn vị liên quan nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các chương trình, dự án, tránh chồng chéo về chức năng nhiệm vụ.
Năm là, tích cực nâng cao và hoàn thiện hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát TMĐT. Cần đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra về các nội dung, việc cung cấp thông tin điện tử bán hàng; giao kết hợp đồng trên sàn; vấn đề thu thập, bảo vệ và sử dụng thông tin cá nhân; các vấn đề tranh chấp, khiếu nại của khách hàng. Tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ, kỹ năng của cán bộ thanh tra. Xây dựng và ban hành các quy chế, hình thức xử phạt nghiêm khắc và đủ sức răn đe hơn đối với hoạt động này.
Tài liệu tham khảo
- Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (2022). Sách trắng thương mại điện tử Việt Nam. Truy cập tại: https://idea.gov.vn/?page=document;
- Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2022). Báo cáo Chỉ số Thương mại điện tử Việt Nam năm 2022. Truy cập tại: https://vecom.vn/bao-cao-chi-so-thuong-mai-dien-tu-viet-nam-2022;
- Lê Trung Hiếu (2023). Quản lý nhà nước về Thương mại điện tử ở Việt Nam. Tạp chí Công Thương tháng 5;
- Đào Thị Hạnh (2021). Thực trạng, những vấn đề đặt ra và giải pháp cho việc quản lý thuế đối với TMĐT tại Việt Nam.Tạp chí Công Thương số 6, tháng 3.
Nguyễn Thị Huyền Trang