Phát huy vai trò các nhà khoa học trong xây dựng pháp luật

Để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức vào hoạt động xây dựng pháp luật, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã nhấn mạnh: " Phát huy năng lực của trí thức trong việc thực hiện các chương trình, đề tài nghiên cứu của Nhà nước và xây dựngđường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật"
Thực trạng
Để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức vào hoạt động xây dựng pháp luật, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã nhấn mạnh: " Phát huy năng lực của trí thức trong việc thực hiện các chương trình, đề tài nghiên cứu của Nhà nước và xây dựngđường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật" .Chủ trương của Đảng như vậy, song trên thực tế, vai trò của các nhà khoa học Việt Nam trong hoạt động xây dựng pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa quan tâm đúng mức đến việc sử dụng tài năng, trí tuệ của đội ngũ các nhà khoa học của đất nước vào quá trình xây dựng pháp luật. Có rất ít nhà khoa học Việt Nam thuộc các cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học được trực tiếp tham gia vào các ban soạn thảo các dự án văn bản quy phạm pháp luật. Chưa có một quy định chính thức nào của pháp luật về sự tham gia của các nhà khoa học vào hoạt động xây dựng pháp luật và cũng chưa có một cơ chế bảo đảm cho các nhà khoa học tham gia có chất lượng và hiệu quả vào hoạt động xây dựng pháp luật. Sự tham gia của các nhà khoa học vào xây dựng pháp luật chủ yếu với tư cách là một công dân, họ chưa được trân trọng với vai trò của nhà khoa học. Bản thân các nhà khoa học cũng cảm thấy ý kiến của họ không được coi trọng, do vậy, họ cũng chỉ tham gia như tất cả những người dân khác mà không nhận thấy hết vị trí, vai trò và trách nhiệm của mình đối với hoạt động xây dựng pháp luật của đất nước. Những năm qua, hình thức tham gia chủ yếu của các nhà khoa học vào quá trình xây dựng pháp luật là tham gia các cuộc hội thảo khoa học hoặc viết bài cho các tạp chí khoa học. Song tác dụng của các cuộc hội thảo, các bài viết này là không nhiều. Điều này do nhiều nguyên nhân: thứ nhất , thành phần những người tham dự hội thảo hầu hết là những người làm công tác nghiên cứu hoặc giảng dạy, rất ít những người trực tiếp tham gia soạn thảo hoặc có quyền ban hành văn bản tham dự; thứ hai , thù lao trả cho những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học tham dự hội thảo hoặc các bài viết liên quan đến hoạt động xây dựng pháp luật không cao, nên không khuyến khích được sự tham gia tích cực của các nhà khoa học; thứ ba , nhiều trường hợp các ý kiến đóng góp tâm huyết của các nhà khoa học không đến được với những người trực tiếp tham gia soạn thảo hoặc có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật đó. Có thể nói, sự giao lưu, hợp tác giữa những người trực tiếp tham gia soạn thảo hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật với những nhà khoa học, những chuyên gia thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau là không nhiều. Vì vậy, một số tình huống của cuộc sống được pháp luật quy định chủ yếu được nhìn nhận xem xét dưới giác độ chính trị hoặc quản lý nhiều hơn là góc độ khoa học. Vì vậy, chất lượng và hiệu quả của một số quy định pháp luật chưa cao, thiếu tính khoa học, khó đi vào cuộc sống, thiếu tính ổn định và phải sửa đi, sửa lại nhiều lần.
Giải pháp
Để khắc phục thực trạng trên, một trong những giải pháp quan trọng hiện nay là phải nâng cao hơn nữa vị trí, vai trò và trách nhiệm của các nhà khoa học trong công tác xây dựng pháp luật. Nhất là, khi mà khoa học, công nghệ đã thực sự trở thành động lực và đang từng bước giữ vai trò quyết định đến sự phát triển của đất nước, thì sự hợp tác giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật với các nhà khoa học lại càng cần thiết trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và cùng vì mục đích chung. Các nhà khoa học - những chuyên gia thuộc các ngành nghề và lĩnh vực hoạt động khác nhau thường được đào tạo từ rất nhiều nguồn khác nhau ở trong nước, ngoài nước. Do vậy, họ là những người có trình độ cao về ngoại ngữ, pháp luật, kinh tế và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, đồng thời họ cũng là những người có sự hiểu biết tương đối tốt về những kinh nghiệm của nước ngoài trên các lĩnh vực. Do có chuyên môn sâu về lĩnh vực hoặc ngành nghề của mình, nên họ cũng trực tiếp biết được những tác động của pháp luật hiện hành lên các quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực họ đang công tác và những đòi hỏi cần phải có đối với pháp luật về lĩnh vực hay hoạt động đó. Vì thế, những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học vào quá trình xây dựng pháp luật là vô cùng quan trọng. Nhà khoa học có thể tự mình hoặc thông qua các tổ chức, hiệp hội mà họ là thành viên để tham gia vào quá trình ban hành văn bản pháp luật dưới những hình thức như: - Tham gia xác định nhu cầu điều chỉnh pháp luật bằng việc phân tích chính sách; phát hiện những bất cập của hệ thống pháp luật hiện hành hoặc quá trình điều chỉnh pháp luật trên thực tế; đề xuất những ý tưởng, những ý kiến về sự phát triển của pháp luật trong tương lai; giới thiệu những kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật ở các nước khác hoặc giới thiệu những thành tựu mới nhất trong lĩnh vực điều chỉnh pháp luật của khoa học pháp lý trên thế giới; - Đóng góp ý kiến vào chương trình xây dựng pháp luật, tham gia thảo luận, đóng góp vào các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; tham gia trực tiếp vào quá trình soạn thảo với tư cách là một thành viên của ban soạn thảo; - Viết báo, bài cho các tạp chí khoa học, gửi thư, phát biểu trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc các hội thảo khoa học bàn về nội dung, hình thức hoặc các vấn đề có liên quan đến văn bản quy phạm pháp luật; - T −vấn với t−cách là chuyên gia cho các đại biểu Quốc hội hoặc các Ban soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật khi được mời; - Tham gia phản biện các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật hoặc tham gia thẩm định, đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp, tính  khoa học, sự rõ ràng, mạch lạc của văn bản pháp luật... Như vậy, nhà khoa học có thể tham gia vào bất kỳ một giai đoạn nào của quá trình xây dựng pháp luật, từ việc tham gia phân tích chính sách, đến việc trực tiếp soạn thảo, tham gia đánh giá, thẩm định… Sự tham gia của các nhà khoa học là sự hỗ trợ những luận cứ khoa học cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc ban hành pháp luật. Với sự giúp đỡ của các nhà khoa học (các tổ chức hay hiệp hội của họ) thì chắc chắn các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ soạn thảo và ban hành được những văn bản quy phạm pháp luật khoa học và có hiệu quả hơn, đặc biệt là khi ban hành những văn bản có liên quan đến các vấn đề chuyên môn sâu thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau. Do vậy, chúng tôi cho rằng nhà nước ta nên quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sự tham gia có tính bắt buộc của các nhà khoa học với tư cách là nhà khoa học vào hoạt động xây dựng pháp luật, bắt buộc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tham khảo ý kiến của các nhà khoa học và bắt buộc các nhà khoa học, các hiệp hội khoa học kỹ thuật phải có ý kiến chính thức bằng văn bản về nội dung khoa học của các văn bản quy phạm pháp luật trước khi được các cơ quan có thẩm quyền lựa chọn phương án cuối cùng để ban hành. Quan trọng hơn cả là, tham gia phân tích chính sách để quyết định có nên đưa ra sáng kiến lập pháp hay không. Việc phân tích chính sách có tác dụng cung cấp những thông tin, sự hiểu biết xác thực tình hình, thực trạng và xu hướng phát triển của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước cũng như của thế giới trong hiện tại và tương lai, từ đó xác định những chính sách, những đòi hỏi đối với sự phát triển của hệ thống pháp luật đất nước. Việc phân tích chính sách thường được tiến hành ở nhiều cấp độ và mức độ khác nhau. Chẳng hạn, các nhà khoa học, các chuyên gia trong phạm vi cấp bộ, ngành có thể tham gia phân tích những vấn đề liên quan đến bộ, ngành hoặc lĩnh vực mà mình phụ trách để đưa ra sáng kiến lập pháp ở phạm vi cấp bộ, ngành mình. Các nhà khoa học, các chuyên gia cũng có thể tham gia vào phân tích chính sách ở các cấp cao hơn, như cấp Chính phủ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc Quốc hội khi sáng kiến lập pháp đã được đệ trình lên các cơ quan này. Tuỳ theo yêu cầu mà mức độ phân tích của các nhà khoa học dừng lại ở việc tìm hiểu, xem xét vấn đề, đánh giá thực trạng, lý giải những ưu điểm, hạn chế hay lựa chọn tiêu chuẩn để đánh giá hoặc phân tích các giải pháp... Nội dung mỗi văn bản quy phạm pháp luật thường liên quan đến rất nhiều các yếu tố, như: kinh tế, chính trị, đạo đức, môi trường, liên quan đến công tác quản lý, đến lợi ích của nhà nước, lợi ích của mỗi người dân, đến các tầng lớp xã hội… Nếu các chính khách, các nhà quản lý thường phân tích, đánh giá vấn đề dưới góc độ chính trị và quản lý nhiều hơn thì các nhà khoa học phải tập trung phân tích, xem xét vấn đề dưới góc độ khoa học nhiều hơn. Chẳng hạn, phân tích của các nhà khoa học về tính kinh tế hay ảnh hưởng về môi trường…của giải pháp lựa chọn. Như vậy, việc ban hành bất kỳ một quy định hay một văn bản quy phạm pháp luật nào cần phải được cân nhắc về mọi phương diện, sao cho phương án đưa  ra là phù hợp nhất. Điều này chỉ có thể thực hiện tốt khi biết phát huy vai trò của các nhà khoa học vào quá trình soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật. Chúng ta đều biết, pháp luật là một hệ thống nên mỗi văn bản hay quy định pháp luật luôn có sự liên hệ gắn bó chặt chẽ với các văn bản hay quy định pháp luật khác, đồng thời, mỗi văn bản hay quy định pháp luật luôn tồn tại trong những môi trường nhất định, chúng chịu sự chi phối của môi trường, nhưng cũng có ảnh hưởng rất lớn đến môi trường. Do vậy, nhiệm vụ của nhà làm luật là làm sao phải xây dựng được những quy phạm hay văn bản quy phạm pháp luật phù hợp nhất, có hiệu quả cao nhất trong sự liên hệ và ràng buộc chặt chẽ với các quy định khác trong hệ thống pháp luật. Chẳng hạn, ảnh hưởng của quy phạm hay văn bản đối với các quy định pháp luật khác trong hệ thống pháp luật của đất nước hoặc các quy định của pháp luật quốc tế; đến tình hình tài chính, đến các chính sách về kinh tế, xã hội, môi trường của đất nước; ảnh hưởng đến các mối quan hệ giữa các ngành, các cấp, giữa nhà nước với tư nhân, với xã hội… Vì vậy, việc phân tích chính sách cần phải có sự tham gia của nhiều chủ thể, nhiều chuyên gia thuộc các lĩnh vực, các ngành, các cấp khác nhau. Như vậy, quan trọng hơn cả là phân tích chính sách để đưa ra được những nguyên tắc, những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo về nội dung, hình thức của văn bản quy phạm pháp luật. Đây phải là công việc chủ yếu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản. Các cơ quan này phải tổng hợp được ý kiến của các chính khách, các nhà lãnh đạo, quản lý, các nhà chuyên môn, các nhà khoa học, đại diện của các đối tượng chịu sự tác động của văn bản, của các cấp, các ngành có liên quan để đưa ra được đề cương chi tiết của văn bản. Vì thế, việc tham gia của các nhà khoa học vào giai đoạn này là rất quan trọng và chủ yếu nhất. Các nhà khoa học phải là một trong những thành phần không thể thiếu khi bàn tới những vấn đề chuyên môn có liên quan đến văn bản thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Sau khi đã thống nhất được các nguyên tắc, các tư tưởng, quan điểm chỉ đạo về nội dung của văn bản thì việc chuyển hoá chúng thành các quy tắc xử sự chung chỉ còn là những hoạt động mang tính chất kỹ thuật của các luật gia là những người chuyên soạn thảo văn bản. Với cách làm này, Nhà nước nên thành lập Ban soạn thảo gồm đội ngũ những chuyên gia vừa có kỹ năng và kỹ thuật cao chuyên làm công việc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật để năng suất và kỹ thuật lập pháp tốt hơn, có tính chuyên nghiệp hơn. Cách làm này cũng tránh được hiện tượng cục bộ về lợi ích khi soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật theo kiểu văn bản của ngành nào thì giao cho ngành đó soạn thảo mà lâu nay chúng ta vẫn làm. Với cách tiếp cận như trên, chúng tôi cho rằng, cần phải thay đổi quy trình lập pháp theo hướng nâng cao vai trò, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản trong việc đưa ra những nguyên tắc, tư tưởng, quan điểm chỉ đạo về nội dung của văn bản. Bởi với cách làm như hiện nay, chúng ta đã giao cho ban soạn thảo quá nhiều trách nhiệm và công việc, còn các cơ quan có thẩm quyền ban hành thì bị chi phối quá nhiều bởi các quan điểm của Ban soạn thảo đã được thể hiện trong bản dự thảo nên dẫn đến tình trạng là " Các đại biểu Quốc hội rất hăng hái tranh luận những dự thảo luật, dành hàng giờ vào những chi tiết nhỏ nhưnên đặt dấu chấm hay dấu phảy ở chỗ nào trong một đoạn" còn "khi phát sinh những vấn đề lớn, Quốc hội thường chuyển cho Chính phủ giải quyết" . Các vấn đề có 2 tính chất kỹ thuật, theo chúng tôi, là thuộc trách nhiệm của ban soạn thảo, khi đã đưa dự thảo luật ra trình để thông qua thì không được phép còn những lỗi về kỹ thuật. Các cơ quan có thẩm quyền ban hành, với sự giúp đỡ của các nhà khoa học, sự tham gia của các cơ quan, tổ chức có liên quan, của nhân dân hoặc các đối tượng bị tác động phải có trách nhiệm đưa ra được " phôi " (các nguyên tắc, tư tưởng, quan điểm chỉ đạo về nội dung cơ bản của văn bản) của văn bản cần ban hành. Sau khi “ phôi ” đã được thông qua thì Ban soạn thảo chỉ dựa vào đó tạo ra sản phẩm là “ dự thảo văn bản " để cơ quan có thẩm quyền lựa chọn và quyết định cuối cùng. ở giai đoạn cuối, khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành thảo luận, xem xét tổng thể cũng như nội dung từng điều, khoản để thông qua nếu thấy cần thiết thì có thể yêu cầu (mời) các nhà khoa học tham gia với tư cách là chuyên gia để họ trình bày các thông tin cần thiết mà các nhà làm luật yêu cầu hoặc để các nhà khoa học có ý kiến nhận xét (bày tỏ quan điểm của mình) về các vấn đề đang được xem xét. Các vấn đề hoặc các câu hỏi mà nhà làm luật quan tâm nên gửi trước bằng văn bản cho cá nhân nhà khoa học hoặc cho các hiệp hội mà nhà khoa học đang cộng tác để có sự chuẩn bị trước hoặc cũng có thể là hỏi và trả lời trực tiếp ngay tại cuộc họp. Để các nhà khoa học có thể “ nói thẳng, nói thật”, thì Nhà nước cần phải tạo ra cơ chế lấy ý kiến để các nhà khoa học, các tổ chức khoa học có thể tự do thể hiện quan điểm của mình và phải chịu trách nhiệm khoa học về những ý kiến đó. Việc tập hợp, tổng hợp các ý kiến của các nhà khoa học có vai trò rất quan trọng đối với việc tiếp thu của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Đối với việc này cần phải: Thứ nhất, tập hợp tất cả các ý kiến một cách chính xác, khách quan, kể cả ý kiến đồng tình lẫn ý kiến phản đối (không nên chỉ căn cứ vào số lượng ý kiến) mà quan trọng là tính khoa học của ý kiến nên phải tập hợp một cách đầy đủ dù chỉ là một ý kiến có quan điểm khác; Thứ hai, kết quả tập hợp, tổng hợp phải được chuyển toàn bộ đến Ban soạn thảo, đến các cơ quan có thẩm quyền như Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội, cơ quan thẩm tra, thẩm định và các cơ quan hữu quan khác để nghiên cứu tiếp thu. Như vậy, bộ phận tập hợp ý kiến phải độc lập, thực sự vô tư và không bị chi phối bởi lợi ích, quan điểm chỉ đạo của một cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào. Điều 41 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định: " ý kiến tham gia về dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải được nghiên cứu để tiếp thu chỉnh lý dự án, dự thảo văn bản", song việc quy định chi tiết để thực hiện vấn đề này thì chưa đầy đủ. Pháp luật cũng không quy định về việc các cơ quan, bộ phận tổ chức lấy ý kiến phải phản hồi những ý kiến đóng góp của các tổ chức và cá nhân như thế nào. Theo chúng tôi, việc phản hồi ý kiến đóng góp là thể hiện sự tôn trọng của cơ quan lấy ý kiến đối với những tổ chức cá nhân được lấy ý kiến. Việc lấy ý kiến tư vấn của các chuyên gia nên bằng hình thức gửi văn bản và yêu cầu trả lời trong một thời hạn nhất định. Khi đã có ý kiến của các chuyên gia thì các cơ quan lấy ý kiến bắt buộc phải có phản hồi (trao đổi lại với người được lấy ý kiến). Thậm chí có những ý kiến cơ quan lấy ý kiến cần phải phản hồi rõ ràng là có tiếp thu hay không tiếp thu và lý do tại sao. Chỉ thông qua sự phản hồi thì phương án tối ưu mới được thể hiện một cách rõ ràng, đồng thời cũng thể hiện được tính dân chủ, công khai, minh bạch của pháp luật cũng như sự trân trọng đối với người được lấy ý kiến. Đối với những ý kiến khác biệt nhau về cơ bản thì có thể tổ chức tranh luận công khai trên các diễn đàn (tham luận ở các cuộc hội thảo, bài viết trên các báo, tạp chí hoặc tranh luận trực tiếp trên đài phát thanh, truyền hình, trên mạng thông tin điện tử…). Việc công khai, minh bạch các thông tin liên quan đến quá trình soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật sẽ càng làm cho pháp luật của Nhà nước ta thực sự thể hiện ý chí của nhân dân. Việc công khai này vừa thể hiện tính dân chủ vừa có mục đích tham khảo, tranh thủ ý kiến của các nhà khoa học, của nhân dân, đồng thời cũng kiểm tra được dư luận xã hội đối với dự thảo văn bản, không gây ra những bất ngờ đối với các đối tượng chịu sự tác động của văn bản hoặc có liên quan đến văn bản. Việc công khai các ý kiến đóng góp và sự tiếp thu của cơ quan có thẩm quyền còn có tác dụng để toàn thể nhân dân biết được lý do tại sao các ý kiến được xử lý như vậy, đồng thời nhân dân cũng thấy được khả năng (năng lực) của các cơ quan đại diện cho nhân dân trong việc tiếp thu, xử lý các ý kiến đóng góp của các tổ chức, cá nhân đối với việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Với việc công khai, minh bạch quá trình xây dựng pháp luật như trên thì công việc của các bộ phận phục vụ cho hoạt động ban hành pháp luật sẽ tăng lên rất nhiều. Trong trường hợp cần phải huy động nhiều nhân lực cho việc chuẩn bị các dự án luật quan trọng, thì nguồn bổ sung chủ yếu sẽ là cán bộ, giáo viên của các cơ sở đào tạo luật học. Việc huy động này vừa có tác dụng tận dụng được trí tuệ, công sức của đội ngũ cán bộ, giáo viên đó, vừa giúp cho họ có điều kiện hiểu sâu, nắm bắt được nhiều thông tin hơn về nội dung, tinh thần các quy định pháp luật, phục vụ công tác nghiên cứu và giảng dạy được tốt hơn. Để phát huy được vai trò, sự đóng góp của các nhà khoa học, các hiệp hội khoa học vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước nói chung, vào quá trình ban hành pháp luật nói riêng thì thời gian tới, Nhà nước cần nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của các viện nghiên cứu quốc gia, các trường đại học, các hiệp hội khoa học và kỹ thuật. Phát huy tính sáng tạo, tính dân chủ trong các hoạt động khoa học và công nghệ. " Đối với trí thức, tạo điều kiện thuận lợi để thu nhận  thông tin, tiếp cận các thành tựu mới củakhoa học, công nghệ và văn hoá thế giới, nâng cao trình độ chính trị, kiến thức chuyên môn. Khuyến khích tự do sáng tạo, phát minh, cống hiến. Phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng đúng và đãi ngộ xứng đáng các tài năng" . Về phần mình, các nhà khoa học, 3 các tổ chức và các hiệp hội khoa học Việt Nam cũng cần phải đi sâu nghiên cứu những vấn đề lớn của đất nước, khu vực và toàn cầu, giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cung cấp những luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chiến lược, chính sách phát triển kinh tế- xã hội, phát huy nhân tố con người và văn hoá Việt Nam. Các nhà khoa học, các tổ chức và các hiệp hội khoa học Việt Nam cần chủ động tham gia tích cực, có trách nhiệm và có hiệu quả vào công tác xây dựng pháp luật của đất nước.
Kiến nghị
- Bổ sung các quy định pháp luật về sự tham gia bắt buộc của các nhà khoa học vào quy trình xây dựng pháp luật, tạo điều kiện để các nhà khoa học tham gia nhiều hơn, tích cực và có hiệu quả vào việc xây dựng pháp luật; - Nâng cao trách nhiệm của Quốc hội và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc phân tích, đưa ra các nguyên tắc, các tư tưởng, quan điểm chỉ đạo về nội dung, phạm vi, đối tượng điều chỉnh của văn bản sẽ ban hành;
- Thành lập các ban soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật chuyên nghiệp với đội ngũ những chuyên gia tài năng có đủ năng lực và kỹ thuật chuyển hoá những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền thành những dự thảo văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh nhất với kỹ thật pháp lý cao nhất; - Cung cấp cho các nhà khoa học những thông tin cần thiết và có cơ chế dân chủ thực sự bảo đảm để nhà khoa học có thể góp được những ý kiến có giá trị, thiết thực vào việc xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật của đất nước. - Công khai hoá, dân chủ hoá quá trình xây dựng pháp luật. Bảo đảm cơ chế tranh luận công khai, phản hồi bắt buộc của những người lấy ý kiến đối với những người góp ý kiến vào việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. - Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đội ngũ trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài trong xây dựng pháp luật. - Sử dụng hợp lý nguồn kinh phí cho quá trình xây dựng pháp luật. Nhà nước có thể sẽ tốn thời gian, tiền của, công sức nhiều hơn, nhưng với sự tham gia nhiệt tình, có trách nhiệm của các nhà khoa học thì chắc chắn sẽ ban hành được các văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng cao.  
TS Nguyễn Minh Đoan
Đại học Luật Hà Nội 
... Theo lapphap.vn
  • Tags: