Phong cách quản lý nhà nước – một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Phong cách quản lý nhà nước hình thành, phát triển do môi trường chính trị - xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa, pháp luật, ý thức chính trị, đạo đức của cá nhân con người, là sự kết hợp giữa các yếu tố khách quan và phẩm chất cá nhân, rất đa dạng, có phong cách mệnh lệnh, dân chủ, tự do, vô chính phủ, vận động phong trào, phong cách chung, phong cách riêng.
Ở nước ta hiện nay, bên cạnh phong cách dân chủ, pháp quyền, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, vẫn tồn tại nhiều tiêu cực: tham nhũng, quan liêu, lãng phí, hách dịch, cửa quyền, vô chính phủ và những biểu hiện khác, làm sai lệch phong cách quản lý nhà nước. Để xây dựng, hoàn thiện phong cách quản lý nhà nước cần phải phát huy tiềm năng con người, hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan quản lý; tăng cường phân cấp, phân quyền, đổi mới công tác tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật kỷ cương, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật.
Ảnh minh họa - TL
Hiến pháp Việt Nam năm 2013, bên cạnh việc quy định những nghĩa vụ mang tính chính trị - xã hội của mọi cơ quan nhà nước (CQNN), cán bộ, công chức, viên chức “tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân”, đồng thời yêu cầu phải “kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”. Tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, đều ảnh hưởng tiêu cực đến mọi mặt đời sống nhà nước, xã hội, xâm phạm quyền, lợi ích cá nhân, tổ chức, ảnh hưởng tiêu cực đến phong cách quản lý nhà nước (QLNN). Để “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả”[1], cần đổi mới, hoàn thiện phong cách QLNN. Để đổi mới, hoàn thiện phong cách QLNN cần nhận diện một cách khoa học về nó cả ở phương diện lý luận và thực tiễn. Trong bài viết này, các tác giả tập trung luận giải làm rõ nhận thức mang tính phương pháp luận về phong cách QLNN, các yếu tố, tính chất, các loại phong cách, đổi mới phong cách QLNN ở Việt Nam.
1. Quan niệm về phong cách quản lý nhà nước
Phong cách là một hiện tượng phức tạp, đa diện, được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Trong ngôn ngữ tiếng Việt, phong cách được hiểu “vẻ riêng trong lối sống, làm việc của một người hay hạng người nào đó: phong cách sống “phong cách lãnh đạo”[2]. Trong khoa học có nhiều quan niệm khác nhau về phong cách QLNN:phong cách QLNN là tổng thể các thủ pháp, phương thức, cách thức hoạt động của các CQNN, người có thẩm quyền, đồng thời nhấn mạnh các yếu tố hoạt động của họ (nội dung, vai trò, các khả năng, sự ảnh hưởng trong quản lý v.v..)”[3]. Ở đây, phong cách được phân tích tách rời khỏi chủ thể mang phong cách - con người. Kết quả là vấn đề bị đơn giản hoá, chỉ cần xây dựng một tập hợp các yếu tố hợp lý nhất của phong cách QLNN, dạy và bắt họ phải nắm được và thế là sẽ có phong cách quản lý, quản lý sẽ có hiệu quả.Đôi khi cũng có quan niệm “đồng nhất phong cách QLNN với quá trình quản lý, là tập hợp, tổng thể, hệ thống các yếu tố hình thức, phi nhân hóa của QLNN, cũng như­ các yếu tố của hoạt động quản lý, phong cách là sự thống nhất, sự tương tác của các yếu tố quản lý và con người[4]. Thực tiễn, phong cách QLNN rộng, phức tạp và biến động hơn so với quá trình quản lý. Đồng thời, trong quá trình quản lý ẩn chứa tiềm năng chủ yếu của việc hoàn thiện phong cách QLNN. Bởi lẽ, không gì thay thế được trí tuệ, tài năng, trách nhiệm của con người. Cũng có quan điểm “tâm lý hóa phong cách quản lý - tập trung vào các phẩm chất của con người, đặc biệt là các phẩm chất ý chí, tính kiên trì, nghị lực, các tiềm năng, sức mạnh của con người”[5]. Quan điểm này đã tuyệt đối hóa mặt chủ quan của quản lý mà không tính đến mặt khách quan của quản lý, vốn quyết định sự hình thành, xây dựng nên phong cách QLNN. Trên thực tế, điều này thường dẫn đến việc tìm kiếm và lựa chọn những người có tính cách mạnh mẽ để giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý, đứng đầu cơ quan, tổ chức, được xem là chủ yếu trong việc hoàn thiện phong cách quản lý. Cách tiếp cận tâm lý hóa cực đoan nh­ư vậy, ngoài sự mong muốn của những người ủng hộ nó, tạo khả năng cho sự thịnh hành của chủ nghĩa duy ý chí, chủ quan, đôi khi dẫn đến tùy tiện trong quản lý.
Tất nhiên, con người là hình ảnh, trung tâm của quản lý, nhưng xã hội không thể chỉ trông chờ vào những phẩm chất tốt đẹp của người này hay người khác, kể cả phẩm chất của người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, đứng đầu cơ quan, tổ chức. Xã hội cần những đảm bảo chắc chắn, những cơ chế và yếu tố điều chỉnh đáng tin cậy có thể thường xuyên đảm bảo hoạt động của những người lãnh đạo, quản lý theo một hướng cần thiết và với các hình thức, phương pháp và thủ tục được xã hội thừa nhận.
Thực tiễn, phong cách QLNN có vị trí rất quan trọng trong số các yếu tố hợp lý hóa QLNN, là sự tương tác, phối hợp của các yếu tố quản lý và tiềm năng con người. Về thực chất, thông qua phong cách hoạt động của mình, hệ thống quản lý gây ảnh hưởng lên các quan hệ xã hội, các quá trình, các mối liên hệ qua lại khác nhau, hiện thực hóa những tiềm năng dự định mục tiêu, tổ chức và điều chỉnh của mình.
Phong cách QLNN là hiện tượng phức tạp, đa diện, đa yếu tố, có tính hệ thống dựa trên sự tổng hợp những tham số nhất định về xã hội, tổ chức, quy phạm, thông tin và kỹ thuật của QLNN. Có nghĩa là, phong cách QLNN một mặt dựa trên những khởi nguyên khách quan; mặt khác, dựa trên nền tảng di truyền, sự phát triển trí tuệ, sức mạnh tâm lý - xã hội và kinh nghiệm lịch sử của tiềm năng con người. Nói cách khác, phong cách chứa đựng yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan được thu hút vào quản lý. Từ đó có thể khẳng định rằng, phong cách QLNN là sự phản ánh đặc thù về sự thống nhất của cái khách quan và cái chủ quan trong QLNN – lĩnh vực đặc biệt của xã hội. Do đó, chỉ có thể phân tích phong cách quản lý trong mối tương tác của các yếu tố xã hội, vật chất và tinh thần của quản lý với bản thể con người sống động, nhiệt huyết, sự khát khao của các hệ thống quản lý và bị quản lý. Chính vì vậy, thông qua phong cách mà quản lý thể hiện không chỉ là một khoa học, mà còn là nghệ thuật, không chỉ là tam đoạn luận, mà còn là trực cảm nhiệt tình, không chỉ là kinh nghiệm, mà còn là sự nhạy bén phong phú. Phong cách tạo khả năng cho mỗi thành viên tham gia quản lý bộc lộ đầy đủ bản chất sáng tạo của mình, dựa vào những cơ cấu đã xác lập, các quy phạm, các hình thức, các phương pháp và các yếu tố khác của quản lý.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể hiểu: Phong cách QLNN là một hệ thống các phương thức, phương tiện, hình thức và phương pháp hoạt động thường nhật có hiệu quả xã hội và thường xuyên phát triển của các nhà quản lý, của các CQNN, dựa trên những nguyên tắc tương ứng và đảm bảo việc tiến hành các công việc quản lý một cách hợp lý, hiệu quả và dân chủ.
2. Đặc điểm và các yếu tố của phong cách quản lý nhà nước
Do đặc thù của QLNN so với quản lý trong khu vực tư, quản lý của các thiết chế xã hội, nên phong cách QLNN có những đặc điểm khác với phong cách trong các lĩnh vực khác của xã hội, đó là tính năng động của các nhà quản lý và của các cơ quan tương ứng. Tính năng động của các nhà quản lý: a) liên quan với việc áp dụng các quyền hạn của quyền lực nhà nước hoặc dựa vào các quyền hạn này; b) được thể chế hóa rõ ràng, tương đối đầy đủ và được thể hiện trong các hình thức, thủ tục được quy định; c) có mục đích hình thành và thực hiện các tác động quản lý đến các khách thể, đối tượng của quản lý, làm thay đổi các khách thể, đối tượng chịu sự tác động theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu của quản lý[6].
Phong cách QLNN được tạo bởi chế độ chính trị - xã hội, mục tiêu, chức năng và tổ chức của QLNN, gắn liền với lịch sử, truyền thống, văn hóa của nhân dân liên kết thành nhà nước; hoàn cảnh cụ thể về kinh tế - xã hội, tinh thần, chính trị và môi trường quốc tế, với học vấn, trình độ phát triển và mức độ trang bị công nghệ của các nhà lãnh đạo, quản lý và những người bị quản lý. Do đó, không thể chỉ kêu gọi cải thiện phong cách quản lý, mà phải hiểu được nguồn gốc và yếu tố hiện thực tiên định phong cách quản lý.
Vì vậy, phong cách QLNN bao gồm các yếu tố: a) những đặc trưng về mục tiêu, chức năng và tổ chức của các CQNN xác định vị trí và địa vị pháp lý của chúng trong thang bậc hệ thống của các chủ thể QLNN; b) các hình thức, phương pháp, thủ tục hoạt động quản lý được ghi nhận về mặt pháp lý và được sử dụng thực tế tương ứng của các cơ quan quản lý và người có thẩm quyền trong cơ quan đó; c) những phẩm chất được thể hiện thực tế về mặt văn hóa chung, chuyên môn và nhân cách của những người có thẩm quyền, mà thông qua đó, các cơ chế tâm lý- xã hội của quản lý được hình thành.
 Phong cách QLNN rất gần với chế độ chính trị; do đó, các tính chất căn bản của phong cách bắt nguồn từ chế độ chính trị, mặc dù phong cách có những sắc thái riêng và những thể hiện độc lập. Bởi lẽ, chế độ chính trị phục vụ cho lợi ích của quyền lực, hẹp hơn - cho lợi ích của người nắm quyền lực, còn phong cách quản lý đòi hỏi phải tạo cho QLNN tính hợp lý và hiệu quả cần thiết. Quyền lực luôn có tính cục diện hơn so với quản lý, quản lý tái tạo ra hệ thống bị quản lý, hơn nữa khi quản lý tái tạo được hệ thống quản lý ở cấp cơ sở, qua đó dễ thấy được trạng thái của xã hội và các phương thức giải quyết các vấn đề của quản lý. Do đó, muốn đánh giá được phong cách quản lý công bằng, đúng đắn cần phải xem xét thấu đáo khách quan về sự tác động của quản lý đến mọi mặt đời sống nhà nước, xã hội, của cá nhân, tổ chức. Do vậy, quản lý luôn mang tính xã hội hơn so với quyền lực. Quyền lực có thể thành công trong sự tự mãn, tham lam của cá nhân, hay tổ chức, trong khi đó những người bình thường thì khốn cùng. Trong trường hợp như­ vậy, không có quản lý, bởi vì cái và cách mà quyền lực làm không thể gọi là quản lý. Quản lý chỉ tồn tại khi có sự phát triển xã hội thực sự, làm thay đổi hiện thực đời sống nhà nước, xã hội, cá nhân con người theo hướng phát triển tích cực, quản lý nâng đỡ cho sự phát triển.
3. Các loại phong cách quản lý nhà nước
Phong cách quản lý rất đa dạng, phức tạp được sử dụng trong thực tiễn, tùy thuộc vào môi trường chính trị, đời sống kinh tế - xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa, trình độ xã hội, trình độ, văn hóa của người lãnh đạo, quản lý, cán bộ, công chức. Việc phân loại dựa vào những căn cứ khác nhau: Dựa vào các tính chất của phong cách, phong cách quản lý được phân thành: phong cách mệnh lệnh, dân chủ, tự do.
 i) Phong cách mệnh lệnh là phong cách có tính “truyền thống”, hình thành trong lịch sử quản lý, được lưu truyền. Tuy nhiên, lại quá tập trung quyền lực vào một người, đề cao chế độ thủ trưởng dưới các hình thức phóng đại, độc quyền quyết định các vấn đề từ to đến nhỏ của đời sống tập thể, sự hạn chế có ý thức tiếp xúc với những người dưới quyền, không phát huy được sự sáng tạo của cấp dưới, dễ dẫn đến tôn sùng cá nhân.
ii) Phong cách dân chủ có lịch sử hình thành, phát triển cùng với nền dân chủ xã hội, ngày càng được củng cố, là phong cách tin tưởng vào cấp dưới, trao quyền tự chủ cho cấp dưới quyết định các vấn đề phù hợp với trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, với các chức năng được thực hiện, huy động họ tham gia vào quá trình xây dựng các chính sách, quyết định, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực hiện, tạo ra những tiền đề cần thiết cho việc hoàn thành công việc và đánh giá công bằng những nỗ lực của họ, tôn trọng đối với con người và quan tâm đến những nhu cầu của họ.Kinh nghiệm lịch sử chỉ ra rằng, phong cách dân chủ trong QLNN là phong cách hợp lý và hiệu quả nhất và được áp dụng lâu dài, là sản phẩm của chế độ chính trị dân chủ. Phong cách này cho phép ổn định các quá trình quản lý và dựa vào các quá trình quản lý mà chấn chỉnh sự phát triển xã hội hợp lý và hiệu quả.
Phong cách dân chủ của QLNN có các tính chất sau đây:
a) Tính liên hệ chặt chẽ giữa các CQNN với nhau, với công dân, thể hiện qua các mối liên hệ qua lại hữu cơ của các CQNN với các công dân, tạo khả năng thấu hiểu những nhu cầu, lợi ích của các khách thể, đối tượng quản lý và mục tiêu sinh hoạt đời sống của con người, đồng thời các khách thể/đối tượng quản lý thấu hiểu bản chất và ý nghĩa của các chính sách, quyết định và hành động quản lý, khuyến khích sự chủ động, sáng tạo, sự tham gia tích cực trong các công việc của xã hội và nhà nước trong toàn bộ hệ thống QLNN.
b) Tính khoa học của phong cách QLNN thể hiện những khả năng rộng lớn cho việc áp dụng tri thức khoa học vào các quá trình quản lý và tạo cho các quá trình này hướng tới mục tiêu, tính thành thạo và tính ảnh hưởng cần thiết. Tính khoa học của phong cách QLNN đòi hỏi: việc sử dụng rộng rãi các thành tựu của khoa học xã hội, tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ; sự tôn trọng nhất quán trong hoạt động của bộ máy đối với những quy luật khách quan đã được khoa học xác lập trong đời sống xã hội; mặt khác, bộ máy nhà nước phải tạo mọi khả năng cho sự phát triển của tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ và áp dụng rộng rãi những thành tựu của nó vào thực tế; sự tương hợp của trình độ hoạt động của bộ máy với những quy định, kết luận, đề xuất có căn cứ khoa học. Trong khi đó, bản thân tính khoa học cũng tạo ra những điều kiện cho tính định hướng mục tiêu có căn cứ và tính thành thạo trong giải quyết các nhiệm vụ quản lý cụ thể và có hệ thống, hiệu quả.
c) Tính nhân đạo của QLNN đòi hỏi việc xác lập và duy trì trong toàn hệ thống QLNN những mối quan hệ qua lại thực sự nhân đạo giữa người lãnh đạo và những người dưới quyền, giữa các thành viên của cơ cấu quản lý và các khách thể quản lý, giữa các tập thể, các lãnh đạo, quản lý và các công dân, kết quả là các quyền và tự do của con người, công dân được tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ, được hiện thực hóa.
iii) Phong cách tự do thể hiện ở việc không phối hợp trong hoạt động, luôn luôn gắn kèm lợi ích và tự tôn cá nhân, nói nhiều, không nhận trách nhiệm về những quyết định và hậu quả của các quyết định do mình đưa ra khi chúng không thuận lợi.
Ngoài những phong cách nêu trên, phong cách quản lý còn được phân thành:
- Phong cách vô chính phủ, khi tất cả bị buông trôi và mỗi người đều làm những gì mà mình muốn, theo cách riêng của mình;
- Phong cách vận động phong trào, trong đó những người lãnh đạo, quản lý bắt tay vào công việc hết đợt này đến đợt khác, tiến hành sôi động các biện pháp khác nhau, còn sau đó lại lãng quên và cứ thế cho đến đợt “hoạt động” (vận động) tiếp theo;
- Phong cách ý chí có đặc trưng là tính mệnh lệnh, gây áp lực tâm lý thô bạo đối với cấp dưới dựa trên sự lệ thuộc công vụ.
Bên cạnh đó, phong cách QLNN còn được chia thành phong cách chung và phong cách cá nhân.
- Phong cách chung là phong cách chuẩn, được thừa nhận chung, được thể hiện trong những nét chung chủ yếu của nó ở mọi nơi, trên quy mô lớn, được xã hội chia sẻ và ủng hộ.
Phong cách cá nhân được hiểu là phong cách chung được áp dụng phù hợp với những điều kiện cụ thể của hoạt động quản lý và với những phẩm chất của người lãnh đạo, quản lý và những người có thẩm quyền tương ứng. Những phẩm chất tâm lý - xã hội của cá nhân gây ảnh hưởng sâu sắc nhất lên phong cách làm việc của cá nhân.
Việc phân loại phong cách quản lý có tính tương đối, thực tiễn luôn có sự đan xen giữa các loại phong cách.
4. Phong cách quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay
Phong cách QLNN ở nước ta hiện nay hình thành trên cơ sở truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc Việt Nam, chịu sự quyết định của đời sống chính trị - xã hội trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều kiện quốc tế hóa, hội nhập ngày càng sâu rộng trên mọi lĩnh vực, được thể hiện trong Hiến pháp, pháp luật, trình độ, ý thức chính trị, đạo đức, thái độ, tâm lý, tình cảm của cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ và nhiều yếu tố khác. Tất cả những yếu tố này ảnh hưởng tích cực và cả tiêu cực đến phong cách QLNN.
Việc đánh giá phong cách QLNN là vấn đề phức tạp, vì thực tiễn không có một phong cách quản lý nào thuần khiết, thường có sự kết hợp, sự pha trộn các phong cách với sự ­ưu trội của phong cách này, hay phong cách khác. Tùy theo môi trường, khách thể, đối tượng quản lý mà áp dụng phong cách nào đó cho phù hợp. Ngoài ra, cần phải tính đến một điều là: tính chất của phong cách quản lý hình thành trong hệ thống và các phân hệ của quản lý, phụ thuộc trực tiếp nhiều vào phẩm chất cá nhân của người quản lý, có người thì luôn đề cao vai trò của mình trong tập thể, chuyên quyền độc đoán, có người thì dân chủ trong hoạt động công vụ. Chính vì vậy, từ xa xưa ông cha ta đã từng đúc kết thành một triết lý: tân quan, tân chính sách, cùng một cơ quan – môi trường như nhau, nhưng mỗi khi có sự thay đổi người đứng đầu, thì “bầu không khí” “ hay “sinh thái công vụ” có những thay đổi theo hướng tích cực, hay tiêu cực.
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy không trực tiếp sử dụng thuật ngữ phong cách QLNN, nhưng Người đã chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm, thói hư, tật xấu, tiêu cực của cán bộ, đảng viên cần được sửa chữa, bao gồm: 1. Bệnh chủ quan, bệnh kiêu ngạo[7]“Tự cao, tự đại, ham địa vị, hay lên mặt. Ưa người ta tâng bốc mình, khen ngợi mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo, cho ai cũng không bằng mình”[8]; 2. Bệnh hẹp hòi: Hẹp hòi là thường chỉ biết đến mình, không có tinh thần hợp tác. Hẹp hòi cùng với tính gia trưởng sẽ dẫn đến áp đặt ý muốn chủ quan của mình cho người khác, tạo nên tư tưởng thứ bậc theo kiểu “sống lâu lên lão làng”; 3. Bệnh khai hội, thực chất là bệnh hình thức, Người viết: “Khai hội không có kế hoạch, không sắp sửa kỹ lưỡng, không thiết thực. Khai hội lâu, khai hội nhiều quá. Cán bộ khu về tỉnh, cán bộ tỉnh về huyện, cán bộ huyện về làng, thì khệnh khạng như “ông quan”. Lúc khai hội thì trăm ngàn lần như một… Vì vậy, mà quần chúng sợ khai hội… Đó cũng vì bệnh xa quần chúng, bệnh hình thức, khai hội lấy lệ, khai hội để mà khai hội, chớ nào phải vì lợi ích của quần chúng mà khai hội!”[9]; 4. Bệnh nể nang: Đây là thứ bệnh không dám nói thẳng, nói thật, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh. Điều này có ảnh hưởng từ văn hóa trọng tình của người Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra căn bệnh này của cán bộ, đảng viên: “Vì họ hàng quen biết, bầu bạn, thân thích, anh em, cho nên lúc họ có sai lầm cũng cứ nể nang không thiết thực phê bình, thiết thực sửa đổi, sợ mất lòng”[10]; 5. Bệnh tham lam, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Những người mắc phải bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó mà chỉ “tự tư tự lợi”. Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình. Sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi. Tiền bạc đó ở đâu ra? Không xoay của Đảng thì xoay của đồng bào. Thậm chí làm chợ đen buôn lậu. Không sợ mất thanh danh của Đảng, không sợ mất danh giá của mình”[11]; 6. Bệnh thiếu kỷ luật: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bệnh thiếu kỷ luật có nguồn gốc từ chủ nghĩa cá nhân, Người chỉ rõ: “Đã mắc bệnh cá nhân thì tư tưởng và hành động cũng đặt cá nhân lên trên. Vì thế mà việc gì cũng không lấy Đảng làm nền tảng. Mình muốn thế nào thì làm thế ấy. Quên cả kỷ luật của Đảng. Phê bình thì cốt công kích những đồng chí mình không ưa. Cất nhắc thì cốt làm ơn với những người mình quen thuộc”[12]. Bên cạnh đó, Người còn đề cập đến bệnh  7. Bệnh cận thị; 8. Bệnh xu nịnh, a dua; 9. Bệnh cá nhân; 10. Bệnh tị nạnh; 11. Thói ba hoa (bao gồm những biểu hiện: Một là, nói mênh môngHai là, báo cáo lông bôngBa là, nói không ai hiểu. Đây là biểu hiện rất nguy hiểm của thói ba hoa khi tuyên truyền mà quần chúng không hiểu: “Nhiều tờ truyền đơn, nhiều bản nghị quyết, nhiều khẩu hiệu của Đảng, mục đích và ý nghĩa rất đúng. Nhưng viết một cách cao xa, mầu mè, đến nỗi chẳng những quần chúng không hiểu, mà cả cán bộ cũng không hiểu”[13].
Ngày nay, ở nước ta bên cạnh phong cách quản lý dân chủ, pháp quyền, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình đang hình thành, phát triển, ngày càng được củng cố trong toàn hệ thống quản lý, nhưng những thói hư, tật xấu của cán bộ, công chức, đảng viên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời chỉ ra, như nêu ở trên vẫn đang tồn tại ở một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức ở các cấp, các ngành. Thậm chí, nhiều cán bộ, công chức vi phạm bị xử lý kỷ luật, phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự, điều này diễn ra, một mặt cũng là do quan liêu, hay do phong cách quản lý mất dân chủ, chuyên quyền, độc đoán, thoái hóa, biến chất. Về điều này, Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã khẳng định: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp”[14]. Văn kiện Đại hội XII của Đảng cũng khẳng định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn”[15]. Đến Đại hội lần thức XIII của Đảng tục khẳng định: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn còn diễn biến phức tạp”[16].
Tất cả những hiện tượng này đều do môi trường khách quan, yếu tố chủ quan của con người quyết định như: không đánh giá đầy đủ khách quan yếu tố con người trong quản lý, sự mâu thuẫn, chưa hoàn thiện của pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, công tác tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, vấn đề kiểm soát quyền lực trong QLNN còn nhiều bất cập.
5. Đổi mới phong cách quản lý nhà nước
Với quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát huy dân chủ gắn với tăng cường pháp chế, kỷ luật, kỷ cương, phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa Việt Nam, để đổi mới phong cách QLNN, cần phải:
i) Phân tích, đánh giá kết hợp các yếu tố: tiềm năng con người trong các CQNN với mục tiêu quản lý và nguồn lực quản lý hiện hữu, nếu không muốn rơi vào ảo tưởng thì phong cách quản lý phải dựa trên cơ sở khách quan của đời sống nhà nước, xã hội, kinh tế - xã hội.
ii) Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc biệt là bộ máy hành chính nhà nước, trong đó phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các CQNN, các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương, địa phương và các bộ phận cấu thành – bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND và các bộ phận cơ cấu của các cơ quan này, của các chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tăng cường phân quyền, phân cấp một cách hợp lý, để sao cho tránh bị chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước, giữa các phân hệ trong hệ thống QLNN, bản đảm sự thống nhất trong quản lý, đồng thời phát huy được tính chủ động, sáng tạo, trách nhiệm của các cơ quan cấp dưới. Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống quản lý, cần phải tổ chức lại nền kinh tế với cơ cấu hợp lý, đổi mới hình thức, phương thức quản lý với mọi thành phần kinh tế khác nhau, bảo đảm sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, các đơn vị sự nghiệp.
iii) Đổi mới công tác tuyển dụng công chức, đổi mới công tác quy hoạch cán bộ cần phải tổ chức một cách nghiêm túc, khách quan, công khai, minh bạch để chọn được người có tâm, có tầm vào các CQNN, đặc biệt là đối với những người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, tránh tình trạng “ khép kín” trong các cơ quan, tổ chức, phải huy động được mọi người có đủ năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức vào khu vực nhà nước, đổi mới công tác đánh giá cán bộ, thi đua khen thưởng, tránh hình thức, chạy theo phong trào, đủ “chỉ tiêu” xếp loại những người xuất sắc, hoàn thành tốt nhiệm vụ như hiện nay; để sao cho tránh được tình trạng, có người ngày hôm trước nhận các danh hiệu thi đua cao quý, ngày hôm sau “đã trở thành” tội phạm.
iv) Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, đặc biệt là giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của của cán bộ, công chức mọi cấp, mọi ngành trên quan điểm đề cao dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền, tăng tính tập thể trong các cơ quan, tổ chức, đồng thời tăng thêm nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu. Cùng với đó, cần tăng cường giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lòng tự tôn dân tộc, phẩm giá con người cho mọi đối tượng xã hội. Thường xuyên quán triệt quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng đến mọi đối tượng xã hội, coi việc “Học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” là công việc lâu dài, thường xuyên trong toàn xã hội.
v) Đề cao công tác phê và tự phê trong mọi cơ quan, tổ chức, tạo ra được môi trường thực sự dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, dân chủ trong việc đưa ra các chính sách, pháp luật, quyết định quản lý và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, quyết định quản lý. Phát huy được tính tích cực chính trị, quyền làm chủ của nhân dân, cán bộ, công chức, khuyến khích công dân, các tổ chức xã hội tham gia QLNN, thảo luận các vấn đề chung của cả nước, ở địa phương và cơ sở. Cần coi công tác QLNN là công việc chung của toàn xã hội, không phải là công việc riêng của các CQNN.
vi) Tăng cường công tác kiểm soát quyền lực nhà nước trên cơ sở quan điểm đã được khẳng định trong Hiến pháp “quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các CQNN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”, gắn với sự kiểm soát quyền lực của nhân dân, của các thiết chế chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, gắn với đấu tranh với mọi biểu hiện tiêu cực, suy thoái về đạo đức “tự chuyển hóa” “tự diễn biến”, đồng thời tăng cường pháp chế, kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm, đặc biệt là những hành vi tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, bất luận đó là cơ quan, cá nhân nào, như Đảng ta đã khẳng định “ không có vùng cấm”.
vii) Bên cạnh đó, việc hoàn thiện phong cách QLNN phải được tiến hành thường xuyên và phải được thực hiện ở mọi khâu, quá trình QLNN, trước hết đối với từng chức vụ, vị trí việc làm phải được xác định rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, tạo mọi điều kiện để những người giữ các chức vụ, vị trí việc làm phát huy được tính năng động, sáng tạo, khẳng định được mình trong hoạt động công vụ. Tiếp đến là các bộ phận cơ cấu trong cơ quan, tổ chức phải được tổ chức hợp lý, để tránh tình trạng “số người lãnh đạo, quản lý” trong một cơ quan, tổ chức nhiều hơn nhân viên. Càng nhiều người quản lý càng tạo nên nhiều “nút thắt” trong quản lý, người thừa hành chịu sự điều hành, chỉ đạo của nhiều người lãnh đạo, quản lý. Từ đó có thể triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo, trách nhiệm của người thừa hành, không tạo được sự tự giác của họ trong hoạt động vì luôn có sự “ kiểm soát” của người lãnh đạo, quản lý. Kinh nghiệm thế giới: cứ một người lãnh đạo quản lý có 7 người thừa hành 1/7, đối với những lĩnh vực có nhiều đặc thù thì tỷ lệ đó có thể thay đổi 1/5, hay 1/9. Thứ ba đối với người lãnh đạo, quản lý có vai trò quyết định trong việc hình thành, phát triển phong cách hoạt động của cơ quan, tổ chức, bộ phận cơ quan, hay một khâu quản lý do mình điều hành. Người lãnh đạo, quản lý phải là người vạch ra chiến lược và bảo đảm chiến lược hoạt động của quản lý, phân bố thời gian hợp lý để giải quyết các vấn đề cấp bách và quan trọng, phát hiện các vấn đề, tạo điều kiện để duy trì sự tự do cơ động khi lựa chọn các phương án giải quyết và thu hút, điều động các nguồn lực, phân bổ hợp lý các nhiệm vụ, điều phối hoạt động của những người dưới quyền; duy trì các mối quan hệ, tiếp xúc rộng rãi với môi trường xung quanh để thu thập thông tin, đổi mới phương pháp tổ chức các cuộc họp, hội nghị nhằm thu thập, trao đổi, tổng hợp thông tin, đưa ra những ý tưởng, thảo luận các vấn đề khác nhau về khoa học - kỹ thuật, tổ chức, kinh tế, xã hội, ban hành các quyết định tập thể, đề ra những nhiệm vụ cho những người dưới quyền./.

GS.TS. PHẠM HỒNG THÁI

Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,

NGUYỄN THỊ YẾN NGA

Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

 


[1] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, (tập 1), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 203.
[2] Nguyễn Như ý, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, 2009, tr.1337.
[3] Г.В. Атаманчуk: Теория государственного управления, издательство Omega, L 2004, ctp 330 – 331
[4] Г.В. Атаманчуk: Теория государственного управления, издательство Omega, Tlđd.
[5] Г.В. Атаманчуk: Теория государственного управления, издательство Omega, Tlđd.
[6] Г.В. Атаманчуk: Теория государственного управления, издательство Omega, Tlđd.
[7] Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 273, 295, 295, 301, 276, 287, 297.
[8] Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tlđd.
[9] Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tlđd.
[10] Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tlđd.
[11] Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tlđd.
[12] Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tlđd.
[13] Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tlđd.
[14] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 29.
[15] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 44.
[16] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập II) Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.223.
... Theo lapphap.vn
  • Tags: