Quan điểm của Hồ Chí Minh về phòng, chống tham ô, lãng phí

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm vấn đề phòng, chống tham ô, lãng phí. Người coi tệ tham ô, lãng phí, quan liêu là giặc nội xâm, là kẻ thù của nhân dân, là “tội lỗi đê tiện nhất” trong xã hội. Vì vậy, cần phải nghiêm trị các hành vi tham nhũng. Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về phòng, chống tham ô, lãng phí có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.

Tham nhũng là một hiện tượng xã hội nảy sinh và tồn tại cùng với chính quyền nhà nước; là hành vi của những người trong bộ máy nhà nước đã lạm dụng quyền được giao để vụ lợi cho cá nhân hoặc cho một số ít người, làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể hoặc của công dân. Thực tiễn đã chứng minh, tất cả các quốc gia đều có hiện tượng tham nhũng. Song, tính chất và mức độ còn phụ thuộc vào giai cấp, trình độ, năng lực quản lý của từng nhà nước và những điều kiện lịch sử cụ thể.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm cán bộ, công nhân nhà máy in Tiến Bộ, Hà Nội, ngày 13-5-1959 - Ảnh tư liệu TTXVN

1. Về vai trò, ý nghĩa của công tác phòng, chống tham ô, lãng phí

Chống tham nhũng là cách mạng: Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chúng ta tiến hành cách mạng là tiêu diệt cái xấu, xây dựng điều tốt, xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, để xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn. Khi thực dân và phong kiến bị lật đổ, những cái nọc xấu của nó (tham nhũng, lãng phí, quan liêu) vẫn còn, thì cách mạng vẫn chưa hoàn toàn thành công, vì nọc xấu ấy ngấm ngầm ngăn trở, phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Do vậy, đòi hỏi cán bộ, đảng viên và nhân dân phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải thực sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư và đấu tranh chống tham nhũng.

Thực tế cho thấy, trong cán bộ, đảng viên và chiến sỹ, có nhiều người trong lúc tranh đấu thì hăng hái, trung thành, không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, là người có công với cách mạng. Song, đến khi có ít nhiều quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham nhũng, lãng phí, quan liêu, không tự giác, sao nhãng rèn luyện đạo đức cách mạng, họ rơi vào chủ nghĩa cá nhân và biến thành người hại dân, hại nước, có tội với cách mạng.

Hồ Chí Minh cho rằng tham nhũng là thứ xấu xa nhất của xã hội cũ. Nó do lòng tự tư, tự lợi, ích kỷ mà ra, nó do chế độ “người bóc lột người” mà ra. Do vậy, chúng ta muốn xây dựng một xã hội mới, một xã hội tự do, bình đẳng, một xã hội cần, kiệm, liêm, chính, thì chúng ta phải tẩy cho sạch hết những thói xấu của xã hội cũ. Hồ Chí Minh đã nhắc nhở cán bộ và nhân dân ta: “Chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta là rất tốt đẹp, mạnh mẽ, vững như một người khổng lồ có sức khỏe dồi dào. Tệ tham ô, lãng phí, quan liêu là cái xấu xa do xã hội cũ để lại, như cái ung nhọt còn sót lại trên thân thể của người khổng lồ. Công khai và mạnh dạn gạt bỏ cho thật sạch những ung nhọt ấy thì thân thể càng mạnh khỏe thêm. Cho nên, vạch những tệ hại nói trên để sửa chữa, chúng ta không sợ kẻ địch lợi dụng để phản tuyên truyền”(1).

Chống tham nhũng là dân chủ: Dân chủ là khát vọng của con người và cộng đồng xã hội hướng tới một cuộc sống tự do, hạnh phúc. Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Dân chủ là một trong những mục tiêu cao cả, xuyên suốt toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Chỉ khi nào giành được độc lập, xây dựng và phát triển đầy đủ chế độ dân chủ thì người dân mới thực sự ở vào vị thế người chủ và làm chủ, được hưởng quyền tự do dân chủ để phát triển toàn diện. Để bảo đảm cho nền dân chủ của chế độ, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân thực hiện cho được nền dân chủ ấy.

Để thực hiện được dân chủ theo quan điểm của Hồ Chí Minh, phải dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng. Vìvậy, đấu tranh phòng, chống tham nhũng cần phải dựa vào lực lượng quần chúng mới thành công.

Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, quần chúng tức là toàn thể chiến sĩ trong Quân đội, toàn thể công nhân trong xưởng, toàn thể nhân viên trong cơ quan… rồi đến toàn thể nhân dân. Cũng như mọi việc khác, việc chống tham nhũng cũng phải động viên quần chúng, phải thực hành dân chủ, phải làm cho quần chúng hiểu rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham gia mới chắc chắn thành công. Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng.

Chống tham nhũng tạo điều kiện để cách mạng mau đi tới thắng lợi: Nếu nhân dân đồng tâm hiệp lực, đoàn kết thống nhất trong đấu tranh chống tham nhũng thì sẽ góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thông qua đó sẽ giúp cán bộ ta cải tạo tư tưởng, nâng cao giác ngộ, thấm nhuần đạo đức cách mạng, tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Thực hiện tốt cuộc đấu tranh chống tham nhũng sẽ giúp chính quyền trở nên trong sạch hơn, xứng đáng với lòng tin tưởng và sự hy sinh của chiến sĩ và đồng bào. Thực hiện tốt chống tham nhũng sẽ tạo niềm tin của nhân dân yên tâm, phấn khởi lao động sản xuất và tiết kiệm đóng góp vào sự nghiệp kháng chiến kiến quốc; góp phần giành thắng lợi hoàn toàn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

2. Các biện pháp phòngchống tham ô, lãng phí

Thứ nhất, nâng cao đạo đức cách mạngquét sạch chủ nghĩa cá nhân

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, làm tốt công tác tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng là biện pháp hàng đầu trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Người cho rằng trước hết phải đánh thông tư tưởng: “Phải khai hội đủ mặt mọi người trong cơ quan, đơn vị, trường học, v.v.. để giải thích rõ ràng, nói đi nói lại, cho mọi người đều hiểu: tham ô, lãng phí, quan liêu có hại cho dân cho nước thế nào? Vì sao phải chống những nạn ấy”(2).

Hồ Chí Minh cho rằng, thói quen và truyền thống lạc hậu là một trong những nguyên nhân dẫn tới tệ tham nhũng, ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Người cho rằng, nhân dân sống trong chế độ cũ, ảnh hưởng bởi tư tưởng lạc hậu sẽ tồn tại những tàn dư tư tưởng thủ cựu, lỗi thời. Trong cuộc sống hàng ngày, những hiện tượng tốt, xấu, đúng, sai, có đạo đức và vô đạo đức vẫn tồn tại, đan xen nhau, đối chọi nhau. Vì vậy, muốn xây phải gắn liền với chống, chống nhằm mục tiêu xây nhưng lấy xây làm chính. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh căn dặn toàn Đảng, toàn dân phải nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật.

Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới, bằng việc nêu gương người tốt, việc tốt; những tấm gương đạo đức trong sáng xuất hiện trong cuộc sống và bằng việc khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh, để mỗi người tự giác với trách nhiệm, nghĩa vụ của mình.

Thứ hai, chú trọng công tác cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, muốn chống tham nhũng có hiệu quả cần phải làm tốt công tác cán bộ, từ việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đến bố trí, sử dụng... 

Khi bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý phải dân chủ, công khai và đủ các tiêu chuẩn đề ra, trong đó tiêu chuẩn về đạo đức cách mạng là quan trọng nhất. Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Vì thế, điều kiện tiên quyết để đưa sự nghiệp cách mạng đi tới thắng lợi là phải có cán bộ tốt. Cán bộ là yếu tố quyết định chất lượng của đường lối, chính sách, đặc biệt là vai trò gương mẫu, đi đầu trong thực hiện chính sách.   Thực hiện tốt cuộc đấu tranh chống tham nhũng sẽ giúp chính quyền trở nên trong sạch hơn, xứng đáng với lòng tin tưởng và sự hy sinh của chiến sĩ và đồng bào. Thực hiện tốt chống tham nhũng sẽ tạo niềm tin của nhân dân yên tâm, phấn khởi lao động sản xuất và tiết kiệm đóng góp vào sự nghiệp kháng chiến kiến quốc; góp phần giành thắng lợi hoàn toàn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ chỉ có đạo đức trong sáng cùng lòng nhiệt tình, hăng hái sẵn sàng hy sinh thôi thì chưa đủ, mà còn phải có năng lực, trí tuệ, biết nhận thức và vận dụng đúng đắn những quy luật của tự nhiên và xã hội vào hoạt động thực tiễn của mình. Năng lực đầu tiên mà Hồ Chí Minh đòi hỏi ở người cán bộ cách mạng là năng lực lãnh đạo, quản lý, là khả năng tổ chức động viên quần chúng thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ phải có phong cách làm việc dân chủ, tập thể. Đây là đặc trưng phản ánh nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Người cán bộ cần luôn gắn với tổ chức đảng và có trọng trách trong tập thể lãnh đạo. Cán bộ phải có tính quyết đoán và tinh thần trách nhiệm cao. Khi người cán bộ có ý thức và phong cách làm việc tập thể, biết tạo ra bầu không khí dân chủ, biết lắng nghe ý kiến tập thể thì sẽ huy động được sức mạnh tập thể.

Thứ ba, phải công khai, dân chủ, có khen thưởng, có kỷ luật

Công khai, dân chủ là một trong những biện pháp hữu hiệu để phòng, chống tham nhũng. Chế độ mà chúng ta lựa chọn và xây dựng là chế độ dân chủ. Thực hiện tốt dân chủ và công khai sẽ tạo dựng được khối đoàn kết trong cơ quan, đơn vị, đồng thời sẽ tạo môi trường tốt để phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi nạn tham nhũng.

Cùng với cơ chế công khai, dân chủ, Hồ Chí Minh đề cập đến vấn đề khen thưởng, kỷ luật công minh. Đây cũng là một trong những biện pháp quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng. Hồ Chí Minh khẳng định: “Những ai đã lầm đường mà nay biết hối cải thì sẽ được khoan thứ. Những người đã có công thì sẽ được khen thưởng”(3), và “Ai có lỗi mà không thật thà nói ra, sẽ bị kỷ luật. Ai ngăn cản, đe dọa những người kiểm thảo mình, sẽ bị kỷ luật”(4).

Trong bất kỳ cơ quan, đơn vị nào, từ Trung ương đến địa phương, cơ sở, nếu thực hiện nghiêm túc cơ chế công khai, dân chủ, khen thưởng, kỷ luật công minh thì chắc chắn sẽ ngăn chặn, phòng ngừa và đẩy lùi được tham nhũng, lãng phí. Nếu tất cả cán bộ, đảng viên đều thực sự làm việc dưới sự giám sát chặt chẽ của nhân dân, làm việc với động cơ đúng đắn thì sẽ đẩy lùi được chủ nghĩa cá nhân.

Thứ tư, thực hiện tự phê bình và phê bình

Người nhiều lần nhắc nhở cán bộ và nhân dân ta muốn chống tham ô, lãng phí thì phải thực hiện tự phê bình và phê bình: “Chính phủ và Đoàn thể hết sức chống bệnh quan liêu, chống tham ô, chống lãng phí. Tất cả mọi người đều phải trông thấy ai sai thì phê bình. Phê bình để sửa chữa, để tiến bộ. Không phê bình là tự làm mất quyền dân chủ”(5).

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình phải được tiến hành thường xuyên, như việc rửa mặt hàng ngày và tạo thành phong trào rộng rãi chống lại nạn tham ô, lãng phí. Đồng thời, Người cũng lưu ý trong quá trình tự phê bình và phê bình phải thành thật. Thường là việc nhận ra khuyết điểm của bản thân mình, của tổ chức mình không dễ dàng, do đó tự phê bình thường khó hơn việc phê bình. Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người không được “giấu bệnh, sợ thuốc”, nó sẽ giúp cho việc tự phê bình và phê bình có kết quả tốt.

Hồ Chí Minh chỉ rõ, khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải trung thực, không “đặt điều”, “không thêm bớt”. Tự phê bình và phê bình phải kiên quyết, không nể nang, phải dựa vào sự thực, phải đào tận gốc rễ những khuyết điểm. Không nên thoa vẽ, che giấu. Không nên “ít thít ra nhiều”, càng không nên nói việc nhỏ bỏ việc lớn, nói việc cũ quên việc mới.

Tự phê bình và phê bình “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”; tự phê bình và phê bình phải thấm nhuần những chuẩn mực của văn hóa ứng xử giữa con người với con người, hơn nữa ở đây là giữa những đảng viên với nhau - những người đồng chí, cùng nhau phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng.

Chính vì vậy, khi nhận được thông tin từ cơ sở về việc thực hiện tự phê bình và phê bình trong cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí, Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Bác nhận được nhiều thư trong bộ đội gửi lại, hoặc trong chỉnh huấn gửi tới, tự phê bình là có tham ô lãng phí và xin hứa sửa chữa. Chắc rằng trong bộ đội, cơ quan còn có người tham ô lãng phí mà chưa tự phê bình”(6).

Đặc biệt là, ở Công trường đá Sơn Tây, 551 thanh niên làm việc tại đây đã báo cáo lên Chủ tịch Hồ Chí Minh về thành tích tiết kiệm, tăng năng suất, tính ra tiền là 6 triệu 41 vạn 8900 đồng; đồng thời, tự phê bình về những tham ô, lãng phí, làm thiệt hại công quỹ 3 triệu đồng. Người đã viết Thư gửi thanh niên Công trường đá Sơn Tây với nội dung:

“Thân ái gửi các cháu nam nữ thanh niên công trường đá Sơn Tây,

Bác đã nhận được báo cáo của các cháu (4-10),

Các cháu đã cố gắng tăng năng suất và tiết kiệm. Kết quả tính ra tiền là hơn 6 triệu đồng.

Thế là tốt.

Nhưng đồng thời các cháu còn phạm khuyết điểm tham ô, lãng phí, tính ra tiền là độ 3 triệu đồng. Thế là khác nào các cháu đã tự làm hỏng một nửa thành tích của mình!

Bác mong các cháu từ nay thi đua làm đúng những lời hứa hẹn trong báo cáo, tức là:

- Nâng cao tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, Nam cũng như Bắc.

- Nâng cao tinh thần trách nhiệm, thi đua tăng năng suất và tiết kiệm.

- Nâng cao cảnh giác, chống tham ô, lãng phí”(7).

Như vậy, để chống tham ô, lãng phí có hiệu quả, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình để sớm phát hiện những hành vi tham ô, tư lợi, đi ngược lại với mục tiêu, lý tưởng của Đảng và lợi ích của nhân dân.

Thứ năm, xây dựng cơ chế chống tham ô, lãng phí

Ngày 26 -1 -1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Quốc lệnh quy định cụ thể 10 điều thưởng và 10 điều phạt, cho quân và dân biết rõ những điều nên tránh, những việc nên làm. Trong đó điều phạt thứ 8 đã quy định: Trộm cắp của công sẽ bị xử tử.

Khi trả lời phỏng vấn của đại biểu Quốc hội khóa I trong phiên họp ngày 30 -10 -1946, Hồ Chí Minh đã tuyên bố sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ - đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết.

Để đấu tranh có hiệu quả chống tham ô, lãng phí, trong khi đang ráo riết chỉ đạo công cuộc chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp, ngày 23 -11 -1946, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 64 - SL về việc thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Sắc lệnh đã ghi rõ Ban Thanh tra đặc biệt có toàn quyền nhận các đơn khiếu nại của nhân dân; điều tra, hỏi chứng, xem xét các tài liệu giấy tờ của các Ủy ban nhân dân hoặc các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho công việc giám sát; đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong Ủy ban nhân dân hay Chính phủ đã phạm lỗi trước khi mang ra Hội đồng Chính phủ hay Tòa án đặc biệt xét xử; tịch biên hoặc niêm phong những tang vật và dùng mọi cách điều tra để lập một hồ sơ mang một phạm nhân ra Tòa án đặc biệt. Ban Thanh tra có thể truy tố cả các việc đã xảy ra trước ngày ban bố Sắc lệnh này. Ban Thanh tra có quyền đề nghị lên Chính phủ những điều cần sửa đổi trong các cơ quan.

Sắc lệnh cũng quy định về thành lập Tòa án đặc biệt để xét xử những nhân viên của các Ủy ban nhân dân hay các cơ quan của Chính phủ do Ban Thanh tra truy tố. Tòa án đặc biệt có toàn quyền định ấn, có thể tuyên án tử hình. Những án tuyên lên sẽ thi hành trong 48 giờ.

Đến ngày 18 -12 -1949, Hồ Chí Minh lại ký Sắc lệnh số 138B-SL về tổ chức Thanh tra Chính phủ quy định rõ thêm chức năng thanh tra cả Ủy ban Kháng chiến - Hành chính và viên chức về phương diện liêm khiết. Như vậy, ngay từ những ngày đầu lãnh đạo chính quyền và trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra ác liệt, Hồ Chí Minh đã rất quan tâm xây dựng và phát triển Nhà nước cách mạng Việt Nam, để phục vụ cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí, việc thành lập một tổ chức chuyên trách đặc biệt chống tham ô thể hiện quyết tâm lớn của Người.

Thứ sáu, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát

Trong công tác kiểm tra, giám sát cần phải có trọng tâm, trọng điểm, kiên quyết xử lý những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng. Theo Hồ Chí Minh, mục đích kiểm tra là xem xét các vấn đề phát sinh để phát hiện ưu điểm mà phát huy, những khuyết điểm mà khắc phục, sửa chữa. Kiểm tra là công việc thường xuyên, hàng ngày của lãnh đạo. Người coi công tác kiểm tra như “ngọn đèn pha” giúp người lãnh đạo: “Bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ”(8).

Về cách thức kiểm tra, Hồ Chí Minh nhấn mạnh hai vấn đề:

Mỗi cá nhân, mỗi tổ chức phải biết tự kiểm tra, tự kiểm soát hành vi, công việc của chính mình thông qua tự phê bình và phê bình. Cán bộ cấp càng cao, cơ quan lãnh đạo càng cao, càng phải tự giác và thành khẩn tự phê bình và phải làm gương, nêu gương cho cấp dưới, không để xảy ra “thượng bất chính, hạ tắc loạn”.

Để phòng, chống tham ô, lãng phí, Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ phải “khéo kiểm tra” và kiểm tra phải “khéo”. Phải kết hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức kiểm tra, kiểm tra từ dưới lên, từ trên xuống dưới; kiểm tra thường xuyên, bất thường, định kỳ; kiểm tra trực tiếp, gián tiếp. Trong các hình thức và phương pháp kiểm tra, Hồ Chí Minh đề cao kiểm tra thường xuyên và kiểm tra trực tiếp. Người thường xuyên nhắc nhở các đồng chí ở các bộ, ban, ngành ở Trung ương cần phải thường xuyên đi kiểm tra và giải quyết các công việc tại chỗ, phải chống bệnh giấy tờ, hội họp nhiều.

_________________

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.417.

(2), (4), (5), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, sđd, tr.358, 361, 553, 433.

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, sđd, tr.467.

(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, sđd, tr.189.

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, sđd, tr.637.

ThS HOÀNG THỊ HUYỀN

Học viện Chính trị Công an nhân dân

  • Tags: