Thực hiện chuyển đổi số trong quản trị nhân sự tại doanh nghiệp

Cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ tư (CM 4.0) mở ra cơ hội cho các quốc gia và doanh nghiệp phát triển vượt bậc, đồng thời cũng đặt ra thách thức về khả năng bị tụt hậu nếu không bắt kịp xu hướng phát triển. Theo đó, chuyển đổi số (CĐS) là một xu thế tất yếu, có tác động tích cực đến sự tăng trưởng GDP, năng suất lao động và cấu trúc nhân sự trong doanh nghiệp.

Vì vậy, mọi quốc gia và doanh nghiệp đều phải nhanh chóng đề ra các chiến lược CĐS phù hợp với tình hình hoạt động của mình. Trong đó không thể thiếu việc CĐS trong quản trị nhân sự.  

Ảnh minh họa - TL

Vì sao doanh nghiệp cần thực hiện CĐS trong quản trị nguồn nhân lực?  Thực tế cho thấy, đội ngũ nhân sự số đóng vai trò vô cùng quan trọng bởi nhân viên là nguồn lực quyết định sự phát triển, sự thành bại của bất kỳ doanh nghiệp nào. Tuy nhiên, thực tế tại nhiều doanh nghiệp, công tác quản trị nhân sự vẫn tồn tại nhiều vấn đề ảnh hưởng đến năng suất, trải nghiệm của nhân viên, công việc của cả đội ngũ... Khi thực hiện CĐS trong quản trị nguồn nhân lực (NNL) sẽ giúp doanh nghiệp giải quyết những bài toán khó về công tác nhân sự một cách hiệu quả nhằm nâng cao mức độ hài lòng nhân viên, nâng cao năng suất và duy trì tính cạnh tranh.

Vai trò của CĐS trong quản trị NNL

CĐS trong quản trị NNL có vai trò rất lớn: (1) Việc nâng cao sử dụng công nghệ trong bối cảnh toàn cầu hoá có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển NNL của doanh nghiệp.  CĐS với những công nghệ mới hiện đại hơn góp phần phát huy vai trò chủ động của nhân viên trong quá trình này. Nhân viên có thể chia sẻ nhiều hơn quan điểm của mình và hình thành những kinh nghiệm làm việc cá nhân. (2) CĐS trong quản trị NNL thúc đẩy và nâng cao sự giao tiếp, hợp tác và dấn thân không chỉ giữa nhân viên và doanh nghiệp mà còn giữa các nhân viên với nhau. Điều này đóng vai trò vô cùng quan trọng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. (3) CĐS góp phần thay đổi căn bản hoạt động quản trị hiệu quả công việc của nhân viên với sự hỗ trợ của công nghệ. Điều này cho phép các cấp quản lý theo dõi và góp ý gần như liên tục với nhân viên để họ biết được các nhiệm vụ đang được thực hiện như thế nào.

Về mặt chủ trương, cơ sở pháp lý, xuất phát từ bản chất và vai trò của hoạt động CĐS trong quản trị NNL cũng như những thách thức mà doanh nghiệp có thể gặp phải, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách kịp thời tạo tiền đề để tiến hành luật hoá các quy định nhằm điều chỉnh hoạt động này. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu nắm bắt, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc CMCN lần thứ tư. Bộ Chính trị đã ban hành 02 Nghị quyết quan trọng có liên quan trực tiếp đến hoạt động CĐS tại Việt Nam, đó là: Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhấn mạnh “khai thác triệt để thành tựu của cuộc CMCN lần thứ 4”; và Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/ 2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN lần thứ tư, xác định: "Chủ động, tích cực tham gia cuộc CMCN lần thứ tư là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội…".

Tuy nhiên, CĐS cũng đặt ra nhiều vấn đề pháp lý mới đòi hỏi các nhà lập pháp phải có sự nhìn nhận nghiêm túc thực trạng của hệ thống pháp luật hiện hành, từ đó có những thay đổi và điều chỉnh phù hợp. Hiện nay, CĐS trong doanh nghiệp diễn ra ở tất cả các khía cạnh hoạt động của doanh nghiệp như quản trị tài chính, quản trị sản xuất, quản trị marketing, quản trị chiến lược và đặc biệt là quản trị nguồn nhân lực.

Bản chất của CĐS trong quản trị NNL

Chuyển đổi số trong quản trị nhân sự là quá trình ứng dụng các giải pháp công nghệ để thay đổi phương thức làm việc, vận hành – quản lý nhân sự của doanh nghiệp. Trong quá trình này, các công việc thủ công trước đây như chấm công, tính lương, đánh giá hiệu suất, đào tạo, tuyển dụng sẽ được số hóa thay thế bằng các công cụ hiện đại. Điều đó giúp tối ưu hóa quy trình nhân sự, tăng cường trải nghiệm của nhân viên, nâng cao năng suất cũng như cắt giảm thời gian, chi phí. CĐS trong lĩnh vực nhân sự không chỉ là việc “máy móc hóa con người”, và cũng không phải là sự loại bỏ hoàn toàn, mà thực tế là một quá trình tinh gọn và tối ưu hóa nguồn nhân lực hiện tại.

Về bản chất, CĐS trong quản trị NNL (nhân sự) tại doanh nghiệp là số hóa các dữ liệu và quy trình chuyên môn nghiệp vụ của doanh nghiệp bằng việc triển khai và áp dụng công nghệ nhằm tự động hóa quy trình nhân sự, tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Mục tiêu của CĐS trong quản trị NNL là tự động hóa các quy trình, giảm thời gian thực hiện các công việc lặp đi lặp lại và tận dụng tối đa khả năng hiện có của nhân viên. Con người chính là trung tâm của CĐS trong quản trị NNL. Do vậy, để thành công, doanh nghiệp phải xây dựng được văn hóa số. Nghĩa là con người phải sử dụng được các giải pháp tự động nhằm tăng cường khả năng của chính mình. Đó là sự chuyển đổi trong cách thức hoạt động của việc quản lý NNL, sử dụng dữ liệu để định hướng và giải quyết các vấn đề như: quản lý tiền lương, năng suất lao động, đào tạo và phát triển, khen thưởng và tuyển dụng. Việc CĐS sẽ giúp quản lý lực lượng lao động hiệu quả do đó sẽ ảnh hưởng tích cực kết quả kinh doanh, trải nghiệm tại nơi làm việc và văn hóa tổ chức, đảm bảo tầm nhìn hoàn chỉnh, quản lý lực lượng lao động và kiểm soát toàn bộ các quy trình thiết yếu cho tất cả các kỹ năng.

Quy trình thực hiện chuyển đổi số trong quản trị nhân sự bao gồm nhiều bước là: Xác định mục tiêu chuyển đổi số trong quản trị nhân sự; Phân tích và đánh giá tình trạng hoạt động quản trị nhân sự; Xây dựng kế hoạch chuyển đổi số trong quản trị nhân sự; Triển khai giải pháp công nghệ; Hỗ trợ và đào tạo nhân viên; Thử nghiệm và đánh giá; Triển khai toàn diện; Xây dựng văn hóa số hóa.

Trong thực tế, quá trình thực hiện CĐS trong quản trị NNL ở nước ta đang đứng trước những thách thức không nhỏ; cụ thể là: Ở Việt Nam, hầu hết doanh nghiệp thuộc loại vừa và nhỏ, nguồn lực hạn chế, nên các doanh nghiệp này khó có thể áp dụng đồng bộ các thành tựu công nghệ vào quá trình quản trị doanh nghiệp nói chung và quản trị NNL nói riêng; đó cũng là rào cản lớn đối với hoạt động CĐS trong quản trị NNL tại Việt Nam. Mặt khác, sự am hiểu về CĐS ở nước ta còn hạn chế, đặc biệt có sự thiếu hụt đội ngũ chuyên gia về thực hiện các hoạt động CĐS. Giúp cho việc ứng dụng các thành tựu công nghệ để phân tích, chuyển đổi và tạo ra giá trị cho doanh nghiệp, nhưng CĐS cũng đòi hỏi một lực lượng chuyên gia am hiểu và có khả năng ứng dụng các công nghệ tiên tiến vào việc vận hành doanh nghiệp. Điều này đặt ra nhu cầu khá lớn về NNL trong bối cảnh chất lượng NNL của Việt Nam chưa tương xứng. Bên cạnh đó, việc số hoá thông tin và ứng dụng công nghệ trong quản trị NNL với bối cảnh vấn đề an ninh mạng còn chưa sẵn sàng, có thể gây ra những tổn thất lớn không chỉ cho doanh nghiệp mà còn cho chính nhân viên của công ty…

Cần hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về CĐS trong quản trị NNL

1. Nhà nước cần tiếp tục xác định vấn đề CĐS nói chung và CĐS trong quản trị NNL nói riêng là nhiệm vụ trọng tâm và cấp bách; từ đó có những cơ chế hỗ trợ về mặt chính sách để giúp doanh nghiệp có thể tiếp cận các gói hỗ trợ hay các khoản vay để giúp doanh nghiệp thực hiện mục tiêu số hoá theo tinh thần của Quyết định 1970/QĐ-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông ngày 13/12/2021 phê quyệt đề án xác định chỉ số đánh giá mức độ CĐS doanh nghiệp và hỗ trợ thúc đẩy doanh nghiệp CĐS.

2. Tiếp tục hoàn thiện và xây dựng các cơ chế, chính sách để đào tạo và thu hút NNL chất lượng cao có kiến thức chuyên sâu và có khả năng áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật trong hoạt động quản trị nói chung và quản trị NNL nói riêng. Bởi chất lượng đội ngũ nhân sự là điều kiện tiên quyết để công cuộc CĐS thành công.

3. Cần có các quy định nhằm bảo đảm nguyên tắc phát triển các nền tảng số có khả năng kết nối hoạt động liên thông theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, có sự liên kết, chia sẻ dữ liệu, tạo được sức mạnh tổng thể và mang lại hiệu quả, tránh việc triển khai trùng lặp; có các quy định về phối hợp và tổ chức triển khai kế hoạch hành động cụ thể để phát triển từng nền tảng số quốc gia.

4. Các cơ quan quản lý cần tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh các bộ tiêu chí hướng dẫn việc thực hiện CĐS trong doanh nghiệp và thực hiện việc đánh giá phân loại doanh nghiệp.

5. Nhằm phục vụ tốt cho nhiệm vụ CĐS, các cơ quan quản lý nhà nước cần xây dựng các hướng dẫn và bộ tiêu chí về mức độ đào tạo NLĐ của từng doanh nghiệp.

6. Pháp luật cần tiếp tục hoàn thiện các quy định liên quan đến quá trình tuyển dụng và quản lý NNL, bao gồm: Hoàn thiện các quy định của pháp luật điều chỉnh về giao kết HĐLĐ điện tử. Hoàn thiện các quy định liên quan đến giao dịch điện tử; theo đó Pháp luật cần bổ sung các quy định về các nội dung liên quan đến định danh điện tử và xác thực điện tử khi thực hiện các giao dịch thanh toán cho NLĐ./.

Ths. Nguyễn Quang Thuận

...
  • Tags: