Trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Thực trạng và những giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi

TÓM TẮT: Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền được tiếp cận công lý của mọi công dân, đặc biệt là các nhóm yếu thế trong xã hội, được xác định là một trong những giá trị cốt lõi. Trợ giúp pháp lý (TGPL) là công cụ quan trọng để bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực pháp luật, giúp những người có hoàn cảnh khó khăn được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Dù đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, công tác này vẫn cần được quan tâm hơn nữa về cả chính sách, nguồn lực và nhận thức xã hội. Chỉ khi mọi công dân, dù ở hoàn cảnh nào, đều có thể tiếp cận và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi của mình, khi đó công bằng và dân chủ thực sự mới được bảo đảm. Tuy nhiên, trên thực tế, công tác TGPL ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, thiết thực để nâng cao hiệu quả.

Từ khóa: Trợ giúp pháp lý; đảm bảo quyền con người; đối tượng yếu thế.

Ảnh minh họa - TL

Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người nghèo, người thuộc diện chính sách, người dân tộc thiểu số ở vùng đặc biệt khó khăn, trẻ em, người khuyết tật, nạn nhân bạo lực gia đình, người bị buộc tội nhưng không có điều kiện thuê luật sư... nhằm giúp họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đây không chỉ là một hoạt động mang tính nhân đạo, mà còn là công cụ bảo đảm công bằng xã hội, bình đẳng trước pháp luật. Thông qua TGPL, Nhà nước thể hiện cam kết về quyền con người, củng cố niềm tin của nhân dân đối với pháp luật và cơ quan công quyền.

Cơ sở pháp lý

Pháp luật Việt Nam quy định về trợ giúp pháp lý nói chung và quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật nói riêng hiện tương đối đầy đủ, toàn diện. Trong đó, Hiến pháp có trị pháp lý cao nhất, bên cạnh đó có thể kể đến Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, Luật Người khuyết tật năm 2010, Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý, Thông tư số 08/2017/TT-BTP ngày 15/11/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý và hướng dẫn giấy tờ trong hoạt động trợ giúp pháp lý... Mặc dù vậy, để phù hợp với giai đoạn mới, quy định pháp luật về trợ giúp pháp lý cũng cần có những điều chỉnh nhất định.

Ngoài ra còn có các văn bản liên quan khác như: Luật Phòng, chống mua bán người: Có quy định liên quan đến trợ giúp pháp lý cho nạn nhân; Luật Tư pháp người chưa thành niên: Quy định về trợ giúp pháp lý cho người chưa thành niên; Quyết định số 2006/QĐ-BTP ngày 30/6/2025 của Bộ Tư pháp: Công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý.

Các nguyên tắc chung của các văn bản pháp lý là: Nhà nước đảm bảo quyền được trợ giúp pháp lý cho các đối tượng yếu thế; Hoạt động trợ giúp pháp lý được thực hiện miễn phí, không thu phí đối với các đối tượng được hưởng chế độ; Mục tiêu của hoạt động này là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý.

Luật Trợ giúp pháp lý 2017

* Tổng quan về Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017:

Tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 (sửa đổi), có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Đây là văn bản quy phạm pháp luật quan trọng nhất quy định về trợ giúp pháp lý. Trong đó có quy định: Đối tượng được trợ giúp pháp lý bao gồm người thuộc hộ nghèo, người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, trẻ em, người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, và các đối tượng khác theo quy định của pháp luật. Quyền của người được trợ giúp pháp lý là được trợ giúp pháp lý miễn phí, được thông tin về quyền và thủ tục, được lựa chọn tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý. Các hoạt động trợ giúp pháp lý bao gồm tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, và các hình thức khác nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đối tượng.

Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 được ban hành nhằm mục đích: Bảo đảm quyền tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật cho mọi công dân, đặc biệt là những người yếu thế trong xã hội; Tạo cơ sở pháp lý để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý; Thay thế Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, khắc phục những hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện trước đây.

Ý nghĩa của Luật Trợ giúp pháp lý 2017 là: Góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người yếu thế; Thúc đẩy công bằng xã hội, nâng cao niềm tin của nhân dân vào hệ thống pháp luật; Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực bảo đảm quyền con người.

Đối tượng được trợ giúp pháp lý (Điều 7): Gồm 14 nhóm đối tượng là: Người có công với cách mạng; Người thuộc hộ nghèo; Trẻ em; Người bị buộc tội từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi; Người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng đặc biệt khó khăn; và một số nhóm yếu thế khác (người khuyết tật, người bị bạo lực gia đình, nạn nhân mua bán người…).

Hình thức trợ giúp pháp lý (Điều 26) gồm: Tư vấn pháp luật; Tham gia tố tụng; Đại diện ngoài tố tụng.

Một số điểm mới so với Luật 2006: Thu hẹp đối tượng được trợ giúp pháp lý để tập trung nguồn lực cho nhóm yếu thế thực sự cần thiết; Quy định chuẩn hóa đội ngũ trợ giúp viên pháp lý, nâng cao yêu cầu về trình độ, đạo đức nghề nghiệp; Tăng cường xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý, khuyến khích sự tham gia của các luật sư và tổ chức xã hội; Thiết lập cơ chế giám sát, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý.

* Kết quả thực thi:

Luật Trợ giúp pháp lý sau 08 năm thi hành đã đạt được một số kết quả nhất định:

Thứ nhất, thể chế về trợ giúp pháp lý tiếp tục được hoàn thiện. Quyền trợ giúp pháp lý và cơ chế bảo đảm không những được khẳng định trong Luật Trợ giúp pháp lý mà còn được khẳng định ở nhiều đạo luật quan trọng (Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 75 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Điều 19 Luật Tố tụng hành chính, Điều 15 Luật Đất đai năm 2024...).

Thứ hai, năng lực bộ máy và năng lực đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý được nâng cao và tăng cường. Tính đến 31/12/2024, toàn quốc có 63 Trung tâm Trợ giúp pháp lý (với 97 Chi nhánh); 1.440 viên chức, người lao động, trong đó có 712 trợ giúp viên pháp lý; 197 tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; 706 luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý.

Thứ ba, công tác phối hợp trợ giúp pháp lý trong tố tụng được tăng cường, bảo đảm chặt chẽ và hiệu quả. Cùng với việc triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 có các quy định về trợ giúp pháp lý trong Bộ luật Tố tụng hình sự; Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật Tố tụng hành chính, ngày 29/6/2018, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng; Thông tư liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành tổ chức phiên tòa trực tuyến theo Nghị quyết số 33/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội khóa XV…

Thứ tư, chính sách trợ giúp pháp lý đã được đưa vào nhiều chương trình mục tiêu quốc gia và được triển khai đồng bộ cùng các chính sách về an sinh xã hội; như: Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021- 2025; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021- 2025; Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025; Chương trình phòng, chống mua bán người (theo Quyết định số 193/QĐ-TTg ngày 09/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ)… Đặc biệt chính sách trợ giúp pháp lý cũng được đưa vào Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hoá giai đoạn 2025 - 2035 (theo Nghị quyết số 162/2024/QH15 ngày 27/11/2024 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hoá giai đoạn 2025 - 2035) và Nghị quyết số 163/2024/QH15 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy đến năm 2030 đề ra mục tiêu “Phấn đấu trợ giúp pháp lý cho 100% số người vi phạm pháp luật liên quan đến ma túy, người sử dụng trái phép chất ma túy, người nghiện ma túy và người sau cai nghiện ma túy thuộc diện trợ giúp pháp lý khi có yêu cầu”...

Thứ năm, hoạt động trợ giúp pháp lý nhận được sự hợp tác của nhiều quốc gia và sự ủng hộ của nhiều tổ chức quốc tế, góp phần tích cực vào việc hoàn thiện tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về trợ giúp pháp lý, thiết thực phục vụ lợi ích của người được trợ giúp pháp lý.

Thứ sáu, về kết quả thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý: Từ 01/01/2018 - 31/12/2024 (kể từ khi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 có hiệu lực) đã thực hiện 234.569 vụ việc trợ giúp pháp lý, trong đó có 93.266 vụ việc tư vấn pháp luật (chiếm tỷ lệ 39,8%); 139.232 vụ việc tham gia tố tụng (59,4%); 2.071 vụ việc đại diện ngoài tố tụng (0,9%).

Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 được thực hiện từ năm 2018 đến nay đã phát huy nhiều kết quả, tuy nhiên, cũng bộc lộ một số điểm cần sửa đổi, bổ sung. Đó là lý do năm 2025, Bộ Tư pháp đã trình Chính phủ đưa Luật Trợ giúp pháp lý vào sửa đổi và đã được Quốc hội đồng ý đưa vào Chương trình xây dựng luật pháp năm 2026.

Hạn chế, khó khăn

- Nguồn lực con người và tài chính còn hạn chế: Số lượng trợ giúp viên pháp lý chưa đáp ứng nhu cầu thực tế, chế độ đãi ngộ còn thấp.

- Nhận thức của người dân về TGPL chưa đầy đủ: Nhiều người thuộc diện được TGPL không biết hoặc không dám tìm đến cơ quan pháp lý vì tâm lý e ngại, mặc cảm.

- Công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức còn thiếu chặt chẽ, đặc biệt trong việc xác định, giới thiệu và hỗ trợ đối tượng yếu thế.

- Chất lượng TGPL chưa đồng đều, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, nơi thiếu đội ngũ chuyên môn và cơ sở vật chất.

Một số điểm cần sửa đổi và bổ sung đối với Luật Trợ giúp pháp lý (2017) để đáp ứng thực tiễn hiện nay:

1. Mở rộng và làm rõ hơn đối tượng được trợ giúp pháp lý: Luật hiện nay đã mở rộng đáng kể các nhóm đối tượng được trợ giúp pháp lý, nhưng thực tiễn cho thấy vẫn còn nhiều người rất khó tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý (TGPL) vì chưa đáp ứng điều kiện hoặc thiếu thông tin. Cần bổ sung quy định rõ hơn về việc miễn, giảm điều kiện thu nhập, tài sản cho các nhóm dễ bị tổn thương (như người dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa, người tị nạn, người bị mua bán, phụ nữ bị bạo lực…) để tăng khả năng tiếp cận. Cần làm rõ tiêu chí “người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn” trong Luật để tránh áp dụng tùy tiện, đồng thời có hướng dẫn chi tiết hơn về cách xác định, thẩm định.

2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả và phạm vi hoạt động của trợ giúp pháp lý: Luật và các văn bản hướng dẫn (như Thông tư 08/2017/TTBTP, Thông tư 12/2018/TTBTP) đã sửa đổi bổ sung nhiều nội dung. Tuy nhiên, trong thực tiễn vẫn còn tồn tại: số lượng vụ việc giúp pháp lý thấp so với nhu cầu; hỗ trợ nhiều nhưng chưa đạt chiều sâu (chẳng hạn hỗ trợ tố tụng hình sự tốt hơn, nhưng hỗ trợ dân sự – kinh tế – lao động chưa đồng đều). Vì vậy cần bổ sung quy định về:

+ Tiêu chuẩn chất lượng cho tổ chức, cá nhân thực hiện TGPL (ví dụ luật sư, trợ giúp viên pháp lý, trung tâm TGPL) như trình độ, kinh nghiệm, đào tạo chuyên sâu.

+ Bảo đảm kinh phí, ngân sách, nguồn lực cho TGPL: Luật nên quy định rõ hơn về ngân sách nhà nước, nguồn xã hội hóa, cơ chế thanh toán, thù lao cho người làm TGPL để tránh tình trạng “hoạt động hình thức”.

+ Mở rộng hình thức TGPL: chẳng hạn TGPL qua hình thức điện tử, từ xa (online), hỗ trợ người dân ở vùng sâu vùng xa - điều này ngày càng quan trọng trong bối cảnh chuyển đổi số.

3. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan và hệ thống pháp luật: Hoạt động TGPL mang tính đa ngành – liên quan đến tư pháp, tố tụng, chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội. Luật cần bổ sung chức năng, nhiệm vụ rõ hơn về cấp tỉnh, huyện, xã trong tổ chức TGPL; trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan: tư pháp, công an, viện kiểm sát, tòa án. Cần sửa đổi, bổ sung để đảm bảo TGPL được thực hiện liền mạch với tố tụng hình sự, dân sự, hành chính, lao động… tránh tình trạng người được TGPL không được tiếp cận kịp thời, hoặc bị bỏ sót. Cần làm rõ hơn về trách nhiệm theo dõi, báo cáo, đánh giá TGPL của các đơn vị (cơ quan nhà nước và tổ chức cung cấp TGPL).

4. Cơ chế giám sát, đánh giá, báo cáo kết quả hoạt động trợ giúp pháp lý: Luật hiện chưa có quy định chi tiết đầy đủ về việc đánh giá hiệu quả hoạt động TGPL: số vụ việc, chất lượng, mức độ hài lòng người được TGPL, tỷ lệ thành công… Cần bổ sung quy định về:

+ Hệ thống báo cáo thống kê và công khai kết quả TGPL ở các cấp;

+ Tiêu chí, chỉ số hiệu quả (KPIs) cho TGPL: chẳng hạn thời gian xử lý, mức độ tham gia của người được TGPL trong tố tụng, tỷ lệ vụ việc được hỗ trợ thành công, quyền của người được TGPL được biết, được giám sát.

+ Cơ chế phản hồi, khiếu nại đối với chất lượng TGPL - người được TGPL nếu không hài lòng thì có quyền phản ánh, được xem xét.

5. Cập nhật, mở rộng phạm vi trợ giúp pháp lý theo xu hướng quốc tế và thực tiễn mới: Ngày nay, với chuyển đổi số, toàn cầu hóa, làn sóng giao dịch quốc tế, vấn đề TGPL không chỉ dừng ở trong nước. Cần xem xét bổ sung: TGPL trong tranh chấp xuyên quốc gia, TGPL trực tuyến, TGPL cho người nước ngoài, người Việt ở nước ngoài. Cần bổ sung những quy định liên quan đến trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong TGPL: bảo mật thông tin khách hàng, xung đột lợi ích, quyền và nghĩa vụ của người được TGPL. Cần quy định rõ hơn về TGPL trong các lĩnh vực mới như: công nghệ số, báo chí – truyền thông, quyền sở hữu trí tuệ, lao động trong nền kinh tế số.

6. Nâng cấp điều kiện thực hiện và chế tài nếu không thực hiện đúng trợ giúp pháp lý: Luật cần bổ sung chế tài cụ thể hơn nếu tổ chức, cá nhân được phân công TGPL mà không thực hiện, hoặc thực hiện kém chất lượng (ví dụ không tham dự phiên tòa, không cung cấp thông tin, không bảo vệ quyền người được TGPL…). Cần làm rõ trách nhiệm người làm TGPL trong việc bảo vệ quyền lợi của người được TGPL: ví dụ vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thiếu trung thực, xao nhãng… Cũng cần xem xét nâng cấp điều kiện hành nghề TGPL - luật sư đảm nhận TGPL cần có kinh nghiệm cụ thể, hoặc điều kiện đặc biệt (như đối với vụ việc hình sự, người nghèo…).

7. Cơ cấu tổ chức và nguồn lực thực hiện tại địa phương: TGPL tại địa phương (huyện, xã) thực tế còn rất hạn chế, nhiều nơi chưa có Trung tâm TGPL, hoặc có nhưng hoạt động chưa hiệu quả. Luật cần quy định rõ hơn về điều kiện thành lập, tổ chức TGPL ở huyện, xã, cơ chế hoạt động, cơ cấu nhân sự, đảm bảo mỗi địa phương đều có thể tiếp cận. Cần bổ sung ngân sách tối thiểu, cơ chế phân bổ ngân sách rõ ràng hơn cho cấp địa phương để TGPL được thực hiện bình đẳng giữa các vùng. Cần quy định về việc hợp tác xã hội hóa: hỗ trợ từ các tổ chức xã hội, NGO, luật sư tình nguyện… Luật nên cho phép và khuyến khích mạnh hơn việc tham gia của xã hội vào TGPL.

8. Phối hợp với giáo dục pháp luật và phổ biến kiến thức pháp luật: TGPL không chỉ hỗ trợ khi người dân có tranh chấp, mà còn là biện pháp phòng ngừa vi phạm, tăng cường hiểu biết pháp luật. Luật cần bổ sung nhiệm vụ TGPL gắn với phổ biến giáo dục pháp luật - nghĩa là tổ chức TGPL phải tham gia mạnh vào công tác này. Cần có quy định để đảm bảo người dân biết quyền được TGPL của mình - ví dụ thông báo quyền tại cơ quan tố tụng, tại địa phương có biểu ngữ, tuyên truyền…Cần bổ sung quy định về việc sử dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội để tuyên truyền, hỗ trợ người dân tìm hiểu, đăng ký TGPL.

9. Tính đồng bộ với các luật khác và cam kết quốc tế: Vì TGPL liên quan đến nhiều lĩnh vực (tố tụng hình sự, dân sự, hành chính, lao động, sở hữu trí tuệ…), nên Luật cần được bổ sung để đảm bảo đồng bộ với các luật có liên quan, tránh chồng chéo, bỏ sót. Cần xem xét các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập - ví dụ quyền được tiếp cận công lý, quyền được trợ giúp pháp lý - và bổ sung Luật cho phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Cần quy định rõ hơn về TGPL trong quan hệ quốc tế: hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài, người nước ngoài tại Việt Nam.

Việc sửa đổi, bổ sung Luật Trợ giúp pháp lý 2017 là rất cần thiết và cấp bách để đáp ứng tình hình mới, mở rộng tiếp cận, nâng cao chất lượng và hiệu quả TGPL, đồng bộ với chuyển đổi số và yêu cầu quốc tế hóa.

Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi Luật TGPL

1. Tăng cường nguồn lực cho công tác TGPL: Nhà nước cần có chính sách ưu tiên ngân sách, tăng biên chế và đãi ngộ cho đội ngũ trợ giúp viên pháp lý, khuyến khích luật sư, sinh viên luật, tổ chức xã hội tham gia TGPL tự nguyện.

2. Đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng: Tổ chức các chiến dịch truyền thông, phổ biến pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng và mạng xã hội để người dân hiểu rõ quyền được TGPL của mình.

3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong TGPL: Xây dựng hệ thống TGPL trực tuyến, tổng đài tư vấn miễn phí, cơ sở dữ liệu điện tử về các vụ việc, giúp người dân ở vùng xa tiếp cận dễ dàng hơn.

4. Tăng cường phối hợp liên ngành: Thiết lập cơ chế phối hợp giữa Sở Tư pháp, các đoàn thể (Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Luật gia...) và chính quyền cơ sở trong việc phát hiện, giới thiệu và hỗ trợ người thuộc diện TGPL.

5. Nâng cao chất lượng đội ngũ TGPL viên: Thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, kiến thức pháp luật mới, đồng thời kiểm tra, giám sát hoạt động TGPL để bảo đảm tính chuyên nghiệp và hiệu quả.

Trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế là một nhiệm vụ nhân văn, thể hiện bản chất tốt đẹp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Dù đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, công tác này vẫn cần được quan tâm hơn nữa về cả chính sách, nguồn lực và nhận thức xã hội. Chỉ khi mọi công dân, dù ở hoàn cảnh nào, đều có thể tiếp cận và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi của mình, khi đó công bằng và dân chủ thực sự mới được bảo đảm./.

TS. Nguyễn Trung Đăng

Trường Đại học Tân Tạo

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Luật Trợ giúp pháp lý 2017
  2. Số liệu của Bộ Tư pháp tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 và Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015 - 2025.
  3. Công văn số 6079/BTP-trợ giúp pháp lý ngày 08/12/2023 của Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý trong Chương trình MTQG phát triển KTXH vùng đồng bào DTTS và miền núi.
  4. “Tổng quan về hình thành và phát triển công tác trợ giúp pháp lý ở Việt Nam”, https://trợ giúp pháp lý.moj.gov.vn.
  5. Quyết định số 1690/QĐ-TTg ngày 26/12/2023 ca Thtướng Chính phPhê duyt Đề ánKin toàn tchc bmáy, nâng cao năng lc qun lý nhà nước và thc thi pháp lut vchuyn đổi sttrung ương đến địa phương đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.