“Tự do ngôn luận” hay “ngôn luận tự do” để xuyên tạc, kích động chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân

Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, việc bày tỏ tự do ngôn luận càng được chú trọng, bảo đảm hơn. Tuy nhiên, thông tin trên không gian mạng thật - giả, tốt - xấu khó lường, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách lợi dụng tự do ngôn luận

Kể từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, chính quyền về tay nhân dân, người dân Việt Nam mới biết đến các quyền cơ bản của mình, trong đó có quyền tự do ngôn luận. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, việc bày tỏ tự do ngôn luận càng được chú trọng, bảo đảm hơn. Tuy nhiên, thông tin trên không gian mạng thật - giả, tốt - xấu khó lường, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách lợi dụng tự do ngôn luận để phát ngôn tùy tiện, vô lối, nhằm lôi kéo ...

Tự do ngôn luận ở Việt Nam được đề cao, bảo đảm

“Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông nào và không giới hạn về biên giới”(1). Đó là nội dung chính của Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (Tuyên ngôn thế giới về quyền con người), được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết 271A (III), ngày 10-12-1948. Hơn 70 năm tồn tại, Tuyên ngôn vẫn còn nguyên giá trị, được đánh giá là bản tuyên ngôn có ý nghĩa nhân văn cao cả, đã, đang và sẽ còn là mục tiêu phấn đấu của toàn thể nhân loại.

Với mỗi quốc gia, dân tộc, việc kế thừa, phát triển, vận dụng, tuân thủ các giá trị của Tuyên ngôn có sự khác nhau nhất định, do chi phối bởi đặc thù về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa,... Nhưng có một điểm chung bắt buộc là, các quyền tự do ấy, phải trong khuôn khổ pháp luật, như chính Điều 29 và 30 của Tuyên ngôn quy định.

Báo chí nước ngoài tác nghiệp tại Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam

Các Mác và Ph. Ăng-ghen, trên quan điểm duy vật biện chứng, bằng sự khảo sát khách quan nhân quyền tư sản với tinh thần phê phán, đã đi đến khẳng định: “Quyền không bao giờ có thể ở mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa do chế độ kinh tế đó quyết định”(2); tương ứng với những thời đại khác nhau và những cơ sở kinh tế - xã hội khác nhau thì có quyền khác nhau. Theo đó, quan niệm về tự do ngôn luận không bất biến, mà biến đổi trong lịch sử.

Ở Việt Nam, với tầm nhìn vượt thời đại, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sớm định hình tư tưởng về tự do ngôn luận. Trong Lời phát biểu tại Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, năm 1921, Người đã tố cáo thực dân Pháp bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận đối với nhân dân An Nam: “Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có. Chúng tôi không có quyền cư trú và du lịch ra nước ngoài; chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập. Ở Đông Dương, bọn thực dân tìm mọi cách để đầu độc chúng tôi bằng thuốc phiện và làm cho chúng tôi đần độn bằng rượu. Người ta đã làm chết hàng nghìn người An Nam và tàn sát hàng nghìn người khác để bảo vệ những lợi ích không phải của chính họ”(3). Vì vậy, trong Yêu sách của nhân dân An Nam, Nguyễn Ái Quốc kêu gọi các Chính phủ trong khối Đồng minh nói chung và Chính phủ Pháp nói riêng thừa nhận các quyền cơ bản của nhân dân An Nam, trong đó có quyền tự do ngôn luận: “Trong khi chờ cho nguyên tắc dân tộc sẽ từ lĩnh vực lý tưởng chuyển vào lĩnh vực hiện thực do chỗ quyền tự quyết thiêng liêng của các dân tộc được thừa nhận thật sự, nhân dân nước An Nam trước kia, nay là xứ Đông - Pháp, xin trình với các quý Chính phủ trong Đồng minh nói chung và với Chính phủ Pháp đáng kính nói riêng, những yêu sách khiêm tốn sau đây: ... 3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận”(4). Nhất quán yêu sách đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh trong Chương trình Việt Minh, chủ trương: “Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Quốc dân đại hội cử lên sẽ thi hành những chính sách sau này: ...2. Ban bố các quyền tự do dân chủ cho nhân dân: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại trong nước, tự do xuất dương. Bỏ chế độ bắt phu và các chế độ áp bức do đế quốc đặt ra”(5).

Hiện thực hóa tư tưởng về tự do ngôn luận, chỉ hơn 1 năm sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 9-11-1946, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp gồm 7 chương, 70 điều, kế thừa những tinh hoa văn hóa dân tộc và tư tưởng hiến chính của nhân loại, phù hợp với thực tiễn đất nước; trong đó, quyền tự do ngôn luận được hiến định ở Điều thứ 10: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Thực thi Hiến pháp đầu tiên của nước ta nói chung và thực hiện quyền tự do ngôn luận nói riêng, chỉ 3 năm sau, trong bài Trả lời điện phỏng vấn của ông Walter Briggs, tháng 3-1949 đăng trên Báo Cứu quốc, số 1198, ngày 23-3-1949, Hồ Chí Minh đã khẳng định thành tựu quyền tự do ngôn luận rất rõ ràng: “Hỏi: Ở Việt Nam có tự do ngôn luận không (ngoài những ngôn luận phản quốc và thân thực dân Pháp)? Trả lời: Có”. Tiếp tục khẳng định quyền tự do ngôn luận trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc ngày 18-12-1959, Người tiếp tục khẳng định, quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của công dân...

Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền tự do ngôn luận là quyền này phải đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm cá nhân. Tự do ngôn luận, tự do tư tưởng là một giá trị cơ bản, quan trọng bậc nhất của quyền con người. Người giải thích: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân lý”(6).

Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền tự do ngôn luận, trong thời kỳ đổi mới, phù hợp với các Hiến pháp năm 1992 và năm 2013, các văn kiện của Đảng, Nhà nước(7) đều khẳng định và hiện thực hóa quyền tự do ngôn luận của công dân.

Có thể hiểu rằng, tự do ngôn luận là tự do phát biểu ý kiến của mình bàn bạc một công việc chung; là quyền của công dân được tham gia bàn bạc, thảo luận, đóng góp ý kiến vào những vấn đề chung của xã hội.

Thực tế, Việt Nam luôn phải đối mặt với các phần tử và thế lực thù địch cả ở trong và ngoài nước, trên nhiều lĩnh vực, mặt trận khác nhau, trong đó có mặt trận tư tưởng, thông tin. Các thế lực phản động, thù địch luôn tìm mọi cách để xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo, vu khống các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trên mọi lĩnh vực, phủ nhận các thành tựu đã đạt được, kể cả những thành tựu được bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, để phù hợp với thực tiễn, trong bối cảnh “thế giới phẳng”, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã điều chỉnh, bổ sung, xây dựng nhiều đạo luật mới, đề cao, tôn trọng các quyền cơ bản, chính đáng của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Hay như trong các luật được ban hành thời gian gần đây, như Luật Tiếp cận thông tin (năm 2013); Luật Báo chí (năm 2016); Luật An ninh mạng (năm 2018)..., quyền tự do ngôn luận luôn được tôn trọng và bảo đảm. Kể từ khi hòa mạng in-tơ-nét toàn cầu ngày 1-12-1997, Việt Nam liên tục thiết lập những kỷ lục mới, bảo đảm quyền tự do ngôn luận, báo chí, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu tìm kiếm, trao đổi, thụ hưởng thông tin mọi lúc, mọi nơi, mọi mặt,... của người dân cả trên các phương tiện truyền thông đại chúng, cũng như truyền thông xã hội. Người dân Việt Nam có thể dễ dàng truy cập vào tất cả các trang web, báo chí trên thế giới; có thể bày tỏ mọi suy nghĩ, trăn trở, mong muốn chính đáng, hợp pháp, bảo đảm thuần phong mỹ tục, giá trị nhân văn, đạo đức,... của mình trên mạng xã hội hằng giờ, hằng ngày, thông qua việc viết bài, đăng ảnh, video clip. Mỗi người dân Việt Nam cũng đều có thể tiếp cận tin tức của các cơ quan thông tấn, báo chí lớn trên thế giới hay các trang cá nhân của mọi “công dân toàn cầu” mà không gặp phải bất cứ sự hạn chế, ngăn chặn, cấm đoán nào...

Tuy nhiên, in-tơ-nét cũng bị các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng chống phá, tạo những “trận địa giả”, những mũi tấn công đầy mưu đồ đen tối trên mặt trận tư tưởng, dưới chiêu bài “tự do ngôn luận”. Nhưng thực ra, đó không phải là một thứ “tự do ngôn luận” theo đúng ý nghĩa của từ này, không vì sự phát triển của xã hội mà là những lời lẽ, dòng chữ, hình ảnh, video clip chụp mũ, thêu dệt, xuyên tạc, áp đặt, chống phá đầy hằn học, hận thù, đen tối. Đó thực sự là thứ “ngôn luận tự do” bịa tạc, phóng tác, bôi nhọ, tô vẽ,... rẻ rúng, không có căn cứ, bất chấp luân thường, đạo lý và luật pháp.

Không thể chấp nhận những thứ “ngôn luận tự do” bất chấp cả luật pháp và đạo lý... trong xã hội văn minh

Có thể nhận diện, thống kê rất dễ dàng rằng, các phần tử thù địch, cơ hội chính trị luôn tìm mọi cách để tạo dựng những thứ gọi là “tự do ngôn luận” theo cách hiểu ấu trĩ, hạn hẹp, đầy hằn học với mưu đồ xấu xa. Chúng dã tâm, chủ đích lựa chọn, lợi dụng những vấn đề nhiều người dân quan tâm, dễ gây bức xúc, dễ lan truyền rộng rãi trong xã hội để tạo dựng những kịch bản đen tối, chống phá bằng các bài viết, hình ảnh, video clip,... liên quan đến các vụ khiếu kiện đất đai, ô nhiễm môi trường, phản đối trạm thu phí BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao) giao thông, tụ tập đông người núp dưới cái gọi là “hành động yêu nước”,... nhằm gây rối an ninh, trật tự, “bất tuân dân sự”, phá hoại các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước ta; kích động, kêu gọi bạo động, lật đổ...

Lấy ví dụ cụ thể từ các vụ tụ tập phản đối tại các trạm thu phí BOT giao thông trong quý I-2019 tại nhiều địa phương trên cả nước. Trong các vụ này, rất nhiều người, trong đó có những người cầm đầu, cố tình liên tục “tường thuật trực tiếp”, thông qua tính năng livestream của mạng xã hội Facebook và xuyên tạc, nói xấu về hình thức đầu tư BOT, thậm chí cả về những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước... Điều này gây ra sự phản ứng lan truyền mạnh mẽ trên cộng đồng mạng, khiến nhiều trạm thu phí BOT phải “xả trạm” trong nhiều giờ để bảo đảm giao thông được thông suốt, an ninh, trật tự xã hội không bị rối loạn. Hùa vào góp sức, một số báo mạng nước ngoài, những phần tử chống đối ở hải ngoại, cũng như trong nước dưới vỏ bọc mỹ miều là “chống BOT bẩn” liên tục đăng tải những thông tin xuyên tạc, lệch lạc, sai trái,... nhằm mục đích phá hoại. Khi những đối tượng vi phạm pháp luật bị bắt tạm giam, một số báo mạng điện tử nước ngoài thiếu thiện chí, nhất là những báo có phiên bản tiếng Việt và nhiều trang cá nhân trên mạng xã hội Facebook, YouTube,... đã chớp lấy để bình luận đầy hằn học, ác ý, cố tình hướng lái, lật ngược bản chất vấn đề, vu khống, kích động cộng đồng mạng phá hoại, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, cản trở giao thông cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của người dân...

Nhìn rộng hơn, thử điểm lại một số vụ tụ tập đông người kích động, chống đối ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Thuận, Nghệ An, Hà Tĩnh,... trong những năm gần đây, nhất là liên quan đến sự cố môi trường biển ở bốn tỉnh miền Trung để kêu gọi tụ tập đông người, biểu tình, gây mất an ninh, trật tự, chống đối, phá hoại,... thì thấy càng rõ bộ mặt của tổ chức phản động Việt Tân và những mưu đồ đen tối của chúng. Chúng tuyển mộ, đào tạo, lợi dụng những người thiếu hiểu biết, cả tin, bất mãn, có những khúc mắc trong cuộc sống,... để làm thuê cho chúng, thông qua các việc, như tuyên truyền, lôi kéo, kích động các vụ tụ tập đông người và giăng khẩu hiệu phản đối, dùng loa các loại để gào thét vô lối, gây rối, đập phá trụ sở các cơ quan công quyền, nhà máy,... làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Tại các vụ, việc, nhiều phần tử cực đoan, chống đối, vi phạm pháp luật đã bị bắt để giáo dục, nhiều trường hợp bị khởi tố và tạm giam, bị kết án nghiêm minh, thích đáng...

Nhân dịp này, những phần tử chống đối, phá hoại, các thế lực thù địch, vu khống, bịa đặt trắng trợn, rằng “Việt Nam đàn áp tự do ngôn luận”, “Bắt người nói xấu Đảng và tự do ngôn luận”, “Dân oan bị khước từ quyền tự do ngôn luận”, “Chuyện gì đang xảy ra với tự do ngôn luận ở Việt Nam”, “Việt Nam vẫn là quốc gia toàn trị, không có tự do ngôn luận”... Rõ ràng, chỉ thoạt nhìn vào tiêu đề các bài viết đó cũng thấy rõ sự bóp méo, xuyên tạc về quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam - một quyền mà ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công đã được chế định trong Hiến pháp năm 1946 và được pháp luật cụ thể hóa kịp thời, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước ta qua các thời kỳ, bắt nhịp với các bước tiến mang giá trị phổ quát của luật pháp quốc tế, đáp ứng yêu cầu chính đáng của đông đảo nhân dân...

Để bảo đảm tự do cho người này mà không phương hại đến tự do người khác, tất yếu phải có quy định của pháp luật. Quốc hội đã thông qua Luật An ninh mạng, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-1-2019, nhưng các thế lực thù địch lại rêu rao rằng Luật này “chống lại loài người”, “triệt tiêu dân chủ”, “đàn áp bất đồng chính kiến”, “mất quyền tự do ngôn luận”. Chúng cố tình không hiểu rằng “tự do được thừa nhận về mặt pháp lý tồn tại trong nhà nước dưới hình thức luật pháp. Luật pháp không phải là những biện pháp đàn áp chống lại tự do... Ngược lại, luật pháp là những tiêu chuẩn khẳng định rõ ràng, phổ biến, trong đó tự do có một số sự tồn tại vô ngã, có tính chất lý luận, không phụ thuộc vào sự tùy tiện của cá nhân riêng lẻ. Bộ luật là kinh thánh của tự do của nhân dân”.

Ngày 3-4-2019, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc ký Quyết định số 362/QĐ-TTg, Phê duyệt Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025. Đây là quyết định đã được chuẩn bị từ lâu, kỹ lưỡng, phù hợp với sự phát triển trong tình hình hiện nay. Quy hoạch báo chí là hết sức cần thiết, khi không ít cơ quan báo chí có những biểu hiện lệch lạc, xa rời tôn chỉ, mục đích, thương mại hóa, thông tin phiến diện, chỉ chú trọng những mặt trái, tiêu cực,... trong xã hội, thiếu tính giáo dục, thậm chí phản tác dụng, lan truyền những điều xấu. Việc tiến hành quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống báo chí tại Việt Nam là để báo chí hoạt động chuyên nghiệp, lớn mạnh hơn, bắt kịp sự phát triển của báo chí thế giới... Thế nhưng, ngay lập tức, lại xuất hiện trên mạng xã hội, đặc biệt là các phiên bản tiếng Việt của một số cơ quan báo chí nước ngoài những thông tin hết sức quy chụp, thiếu căn cứ... Họ ra sức bịa đặt, vu khống rằng: “Quy hoạch báo chí đến năm 2025: Giảm số lượng, vẫn kiểm soát chặt” (RFA, ngày 3-4-2019), “Quy hoạch báo chí ‘theo kiểu coi báo chí là công cụ’?” (BBC, ngày 9-4-2019), “Quy hoạch báo chí “vi hiến”, sẽ “làm thất nghiệp” hàng nghìn nhà báo?” (VOA, ngày 9-4-2019)... Tương tự, các trang mạng xã hội của các cá nhân, tổ chức chống đối, gây rối, phản động, cũng hùa theo rằng, “Việt Nam không có nền báo chí độc lập”, “Quy hoạch báo chí gây tranh cãi”, “Quy hoạch báo chí - phóng viên mất việc, độc giả mất lựa chọn?”...

Thành tựu được thừa nhận và đường cùng của thứ gọi là “ngôn luận tự do”

Để phản bác, khẳng định những thứ “ngôn luận tự do” vô lối mà các phần tử, thế lực thù địch, phản động bóp méo, thổi phồng, lan truyền rộng rãi trên không gian mạng, không gì thuyết phục hơn là nêu ra những kết quả, thành tựu mà Việt Nam đã đạt được, được bàn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, về cơ bản đáp ứng được yêu cầu đặt ra cho việc thúc đẩy, bảo vệ và phát triển quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tự do ngôn luận. Vì lẽ đó, Việt Nam được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009), thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016), thành viên Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2016 - 2018), thành viên Hội đồng Chấp hành Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2015 - 2019). Theo kết quả bầu chọn tại khóa họp thứ 73 Đại hội đồng Liên hợp quốc công bố ngày 7-6-2019, Việt Nam nhận được 192/193 phiếu ủng hộ, vượt xa mốc tối thiểu 129/193, chính thức trúng cử vào ghế Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021. Đó là những bằng chứng thuyết phục nhất khẳng định ở Việt Nam có tự do ngôn luận, phản bác những kẻ rắp tâm phá hoại đất nước bằng thứ “ngôn luận tự do” đầy hằn học, xấu xa, thiếu căn cứ...

Trong khi tình hình thế giới biến động phức tạp, khó lường về nhiều mặt thì sự phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam vẫn luôn đạt mức tăng trưởng tốp đầu so với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Đặc biệt, trong 9 tháng đầu năm 2019, GDP tăng 6,98% - mức tăng cao nhất trong vòng 9 năm qua. Lạm phát tiếp tục được kiểm soát ở mức thấp, bình quân 9 tháng tăng 2,5% - mức tăng thấp nhất trong 3 năm qua. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 10,3%, đặc biệt khu vực ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng 45,3%, tăng 16,9%. Vốn FDI thực hiện cao nhất trong nhiều năm trở lại đây, ước đạt 14,2 tỷ USD, tăng 7,3%. Thu ngân sách nhà nước tăng cao (10,1%), bội chi còn 3,4% GDP, nợ công còn dưới 57% GDP... Đó là những số liệu minh chứng một cách thuyết phục về sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, cũng như môi trường đầu tư thuận lợi, an toàn, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là sự xuất hiện ngày càng nhiều các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới... Lâu nay, câu nói “một nửa cái bánh mì vẫn là bánh mì, nhưng một nửa sự thật thì không phải là sự thật” đã rất quen thuộc, được thừa nhận rộng rãi trên thế giới. Điều này không có gì phải bàn cãi. Và với báo chí - truyền thông, một trong những nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong hoạt động của mình là phản ánh sự thật khách quan, tôn trọng sự thật một cách tuyệt đối, toàn vẹn. Chính vì thế, việc những đối tượng, tổ chức phản động lợi dụng, nhân danh “một nửa sự thật” kiểu cắt xén để tô vẽ, thêm thắt, đắp bồi,... theo sự tưởng tượng, kịch bản mà chúng sắp đặt sẵn, cố tình tạo ra thì rõ ràng đó là sự dối trá, bịp bợm, cố tình xuyên tạc nhằm mục đích chống phá xấu xa.

Trên tinh thần xây dựng đất nước, rõ ràng, mỗi người Việt Nam đều có quyền bày tỏ lòng yêu nước của mình, góp ý, phản biện những chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước... Thế nhưng, việc phát ngôn tự do, vô lối, xuyên tạc, kích động gây rối, đập phá tài sản, vi phạm pháp luật là những hành động đáng lên án, cần phải ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh. Bởi con người biết tuân theo pháp luật mới là con người nhận thức được đầy đủ về tự do. Kiểm soát được hành vi của mình một cách có ý thức thì con người mới thật sự có tự do. Tự do là quyền của con người nhưng đó không phải là tự do vô lối, tùy tiện, vô chính phủ, mà nó chỉ được bảo đảm khi con người nhận thức đúng đắn quy luật khách quan và hành động phù hợp pháp luật - giao kèo, thỏa ước về tự do của tập thể, của cộng đồng, của xã hội.

Phải thừa nhận rằng, ở bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng luôn tồn tại những hạn chế, yếu kém nhất định, bên cạnh sự tiến bộ, phát triển, do chế định của điều kiện cụ thể. Vấn đề là mỗi quốc gia sẽ có sự nhìn nhận, khắc phục những mặt hạn chế đó một cách kịp thời, thấu đáo, toàn diện, quyết liệt,... để luôn tạo ra môi trường tốt đẹp cho sự phát triển, tiến bộ, vững bền, tránh bị xuyên tạc, bóp méo, lợi dụng nhằm công kích, phá hoại... Tại Việt Nam, qua những sự việc gần đây có thể thấy rằng, người dân cũng cần phải được vận động, tuyên truyền nâng cao nhận thức về tự do một cách đúng đắn, xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, biết phân biệt đúng - sai, tốt - xấu, xây dựng - phá hoại,... để từ đó tự trang bị, bảo vệ mình trước những kẻ lợi dụng lòng yêu nước, lợi dụng bức xúc của nhân dân để kích động chống phá. Phải làm cho người dân thấy rõ rằng, tự do không có nghĩa là tùy tiện, vô lối, muốn làm gì thì làm. Tự do ngôn luận đích thực phản ánh năng lực nhận thức và khả năng tự chủ bản thân cả về mặt phát ngôn và hành động. Suy cho cùng, hành động đúng đắn mới là thước đo chính xác về giá trị đích thực của tự do ngôn luận. Không thể nói “tự do nguôn luận” mà hành động lại phá hoại tự do của người khác, tự do xã hội. Tự do chỉ mở rộng cùng nhịp bước với nâng cao hiểu biết của con người về các quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy của con người, phải vận động cùng chiều với quyền và lợi ích chính đáng của quốc gia - dân tộc, để từ đó làm chủ chính mình và hành động tự do. Tự do được hình thành, tồn tại trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, cá nhân và Nhà nước. Lòng yêu nước cần phải được thể hiện với thái độ đúng mực, bình tĩnh, kiềm chế, được kiểm soát,... để không tái diễn những hành vi quá khích, đập phá, hủy hoại tài sản của Nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước, đi ngược lại những chủ trương, chính sách đúng đắn trong phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta.

Một số giải pháp trước mắt 

Trước những diễn biến mới trên mặt trận tư tưởng, ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Tiếp đó, ngày 25-3-2019, Ban Bí thư ban hành Kế hoạch số 14-KH/TW thực hiện Nghị quyết số 35. Theo Kế hoạch số 14, việc tổ chức thực hiện Nghị quyết số 35 cần gắn với việc tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định của Đảng có liên quan. Riêng vấn đề chống lại việc lợi dụng “tự do ngôn luận” để tùy ý “ngôn luận tự do” nhằm lôi kéo, kích động, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp cơ bản như sau:

Thứ nhất, sớm kiện toàn việc xây dựng lực lượng chuyên trách theo hướng tinh gọn, đủ mạnh theo tinh thần Nghị quyết số 35-NQ/TW. Đồng thời, phát huy cao nhất trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, trước hết là của người đứng đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch... Lực lượng chuyên trách là những người chủ lực, tiên phong trong việc thực hiện nhất quán, đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, quan điểm cũng như các nhiệm vụ, giải pháp đã được nêu rõ trong Nghị quyết số 35-NQ/TW, với kế hoạch trước mắt, lâu dài, cùng lộ trình ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và những trường hợp đột xuất phù hợp với tình hình thực tiễn một cách linh động, khoa học, sát hợp.

Việc hình thành lực lượng chuyên trách, tinh nhuệ trên mọi lĩnh vực, để có thể kịp thời phát hiện, bóc trần những âm mưu, thủ đoạn mà thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị cố tình gây ra và đấu tranh chống lại những âm mưu đen tối bằng nhiều phương thức khác nhau, trên cả các phương tiện truyền thông đại chúng, cũng như trên không gian mạng, giúp đông đảo người dân hiểu rõ bản chất của thông tin, miễn nhiễm với thứ “ngôn luận tự do” vô lối, trái pháp luật và nhận ra, hiểu rõ dã tâm của những phần tử quá khích, kích động, chống phá...

Thứ hai, các cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ có trách nhiệm tăng cường công tác tuyên truyền nội dung của Nghị quyết số 35-NQ/TW, Kế hoạch số 14-KH/TW một cách thường xuyên, sáng tạo, khoa học, dễ nhớ, dễ hiểu, tránh khô cứng, sáo mòn, giáo điều, khó đi vào cuộc sống. Cần tuyên truyền sâu rộng, thiết thực 4 nhiệm vụ thường xuyên tại Kế hoạch số 14-KH/TW đã được xác định rõ, đó là: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tăng cường thông tin tích cực; đẩy mạnh công tác nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong tình hình mới; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức lý luận chính trị; tăng cường quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm... Đồng thời, các cấp, các ngành chức năng cần kịp thời cung cấp thông tin chính xác, khách quan để đấu tranh phản bác, định hướng dư luận trước những thông tin trái với chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giúp cấp ủy cơ sở có sự định hướng kịp thời...

Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách, đặc biệt là về hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế, công bằng xã hội,... để tạo gốc rễ, nền tảng vững chắc góp phần đẩy mạnh công cuộc phát triển đất nước. Có như thế, mới không tạo ra những “kẽ hở”, những “khoảng trống” cho việc hình thành, phát sinh, tồn tại “nhóm lợi ích”, những quan tham, tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong xã hội... Bên cạnh đó, cần phát huy những kết quả tích cực đã đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội những năm qua, để tạo đà cho những sự bứt phá tiếp theo, với kỳ vọng sẽ đạt được những thành tựu nổi bật hơn nữa trong thúc đẩy đà tăng trưởng, nâng cao đời sống, bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền trong cả nước...

Thứ tư, đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực từ Trung ương đến địa phương, tránh tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”. Có thể khẳng định rằng, việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực, lấy lại niềm tin của đông đảo quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Rõ ràng, đây là vấn đề hệ trọng, là mối quan tâm lớn của toàn Đảng, toàn dân nên không thể nóng vội, mắc sai lầm. Nhưng cũng vì thế mà không thể “chùng xuống”, không thể thiếu quyết liệt trong chỉ đạo, thực hiện, nhất là việc đẩy nhanh tiến độ xác minh, điều tra, xử lý các vụ, việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, được nhân dân quan tâm.

Thứ năm, xây dựng, thiết lập hệ thống các giải pháp tuyên truyền đồng bộ, sát hợp, hiệu quả trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên không gian mạng, góp phần nhận diện, chủ động đấu tranh sớm, kịp thời, hiệu quả trước mọi thủ đoạn tấn công, phá hoại của các thế lực thù địch. Các cơ quan báo chí cần tổ chức thông tin cân bằng hơn, tăng cường thông tin về các mặt tích cực, tốt đẹp trong xã hội, tránh tình trạng mất cân bằng thông tin, khiến các thế lực thù địch, phản động dựa vào đó và nhân danh “tự do ngôn luận” để xuyên tạc, vu khống đất nước bằng những gam màu xám... Các cơ quan báo chí cần tăng cường thời lượng cho các chuyên mục đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tránh chỉ dồn việc cho vài cơ quan báo chí vốn lâu nay chuyên đảm trách vấn đề này... Đồng thời, cần thiết phải hình thành, duy trì hoạt động hiệu quả các trang thông tin trên mạng xã hội, nhất là trên mạng xã hội Facebook được tổ chức khoa học, bài bản, với đội ngũ phụ trách chuyên nghiệp nhằm kịp thời, chủ động nhận diện, đấu tranh bài bản, khoa học, xác đáng, thuyết phục, hiệu quả trước các âm mưu, thủ đoạn, hành động chống phá của các thế lực thù địch, phản động...

Thứ sáu, cần kịp thời phát hiện, nhận diện để đấu tranh, nghiêm trị những phần tử phá hoại núp dưới danh nghĩa “yêu nước”, “nhân quyền”, “đòi công lý cho nhân dân” để kích động, tạo lập các mầm mống gây bạo loạn, lật đổ,... trên tất cả các phương diện, hình thức khác nhau. Phải khu biệt, cô lập, xác định đúng đối tượng phản động, phá hoại, kích động, chủ mưu trong từng vụ, việc, cũng như đã cố tình vi phạm cả thời gian dài, có hệ thống để đưa ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật...

Có như thế, việc “tự do ngôn luận” ở Việt Nam mới không bị lợi dụng, xuyên tạc, bóp méo, tùy ý chuyển tải thứ “ngôn luận tự do” vô lối nhằm lôi kéo, kích động gây mất an ninh trật tự, phá hoại đất nước, kêu gọi bạo loạn lật đổ... Rồi dần dần, bằng sức đề kháng mạnh mẽ của mọi tầng lớp nhân dân, thứ “ngôn luận tự do” rẻ tiền, hằn học, chống đối đó mới không còn khả năng tồn tại và bị triệt tiêu, trả lại môi trường lành mạnh cho tự do ngôn luận chân chính, vì sự phát triển bền vững của đất nước.

TS. Nguyễn Tri Thức (Tạp chí Cộng sản)

  • Tags: