Theo Người, đây là một trong những cách thức hiệu quả để kiểm soát quyền lực nhà nước, nhằm ngăn ngừa sự tha hóa quyền lực trong bộ máy nhà nước, nhất là đối với đội ngũ cán bộ trực tiếp thực thi quyền lực nhà nước. Bài viết phân tích quan điểm này của Người và chỉ ra những giá trị, định hướng cho việc kiểm soát quyền lực nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam trong tình hình mới.
Kiểm soát quyền lực nhà nước (KSQLNN) theo nghĩa chung nhất, là một hệ thống những hoạt động được thực hiện bởi các chủ thể khác nhau trong việc sử dụng các công cụ, phương tiện và biện pháp phù hợp để xem xét, giám sát, phát hiện, ngăn chặn sự tha hóa quyền lực của cá nhân, tổ chức thực thi quyền lực nhà nước. Trong khoa học chính trị, KSQLNN được đề cập đến với nhiều phương thức khác nhau, song tựu trung lại có hai phương thức cơ bản là kiểm soát quyền lực bên trong nhà nước và kiểm soát quyền lực bên ngoài nhà nước.
Trong phương thức kiểm soát quyền lực bên ngoài nhà nước, Hồ Chí Minh đã quan tâm và đưa ra nhiều quan điểm, chỉ đạo thực tiễn để kiểm soát có hiệu quả quyền lực nhà nước thông qua công tác cán bộ. Từ nghiên cứu lý luận và từ thực tiễn, Hồ Chí Minh thấu hiểu quyền lực luôn có xu hướng bị người được ủy quyền lạm dụng. Do đó, để ngăn ngừa tình trạng cán bộ lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô, lãng phí, quan liêu, Hồ Chí Minh coi trọng KSQLNN bằng cách làm tốt các khâu, các bước trong quy trình công tác cán bộ.
Đó là toàn bộ hoạt động của các chủ thể, lực lượng sử dụng các cách thức, phương tiện khác nhau để kiểm tra, giám sát, phát hiện, ngăn ngừa việc lạm dụng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn tác động vào quy trình công tác cán bộ, bảo đảm cho việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích, hiệu quả.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực nhà nước trong công tác cán bộ
Thứ nhất, hiểu và đánh giá đúng cán bộ để lựa chọn đúng cán bộ
Hồ Chí Minh cho rằng, đây là nội dung đầu tiên để KSQLNN trong công tác cán bộ. Người lý giải, hiểu cán bộ, xem xét, đánh giá đúng cán bộ để lựa chọn đúng cán bộ một mặt sẽ tìm thấy những nhân tài mới, mặt khác, những người yếu kém sẽ bị lòi ra. Qua bước này, sẽ giúp cán bộ khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân, lạm quyền, lộng quyền kéo dài. Theo Người, hiểu và đánh giá đúng cán bộ phải có những yêu cầu riêng, bảo đảm tính khách quan, chính xác và giúp ngăn ngừa sự tha hóa quyền lực. Người viết: “Từ trước đến nay, Đảng ta chưa thực hành cách thường xem xét cán bộ. Đó là một khuyết điểm to. Kinh nghiệm cho ta biết: mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt thì tìm thấy những nhân tài mới, một mặt khác thì những người hủ hóa cũng lòi ra”(1).
Trong đánh giá cán bộ, Hồ Chí Minh luôn dựa trên phân tích, nhận định đúng tình hình và đánh giá đúng phẩm chất, năng lực của cán bộ, biết được chỗ mạnh, chỗ yếu, sở trường của cán bộ. Do đó, Người đã sử dụng cán bộ rất đắc dụng, qua đó không chỉ đem lại thành công cho cách mạng Việt Nam mà còn giúp ngăn ngừa cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi cho cá nhân.
Đối với người được giao phụ trách công tác cán bộ, Hồ Chí Minh yêu cầu khi đánh giá, xem xét cán bộ phải “tự biết mình”, tức là biết được “sự phải trái của mình”, sửa chữa những khuyết điểm của mình, để “Mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng”(2). Người quan niệm, làm được như vậy thì mới không phạm những căn bệnh: “1) Tự cao tự đại, 2) Ưa người ta nịnh mình, 3) Do lòng yêu, ghét của mình mà đối với người, 4) Đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau”(3). Đây là cách thức rất hiệu quả, giúp cho việc lựa chọn khách quan, không bị rơi vào tình trạng tùy tiện, cá nhân chủ nghĩa mà kết quả sẽ làm cho lạm dụng quyền lực gia tăng.
Do vậy, để hạn chế và ngăn ngừa sự tùy tiện trong đánh giá cán bộ, Người lưu ý khi xem xét cán bộ phải toàn diện cả ưu, khuyết điểm, cả lịch sử cán bộ để đánh giá đúng cán bộ, giúp cán bộ khắc phục hạn chế để không rơi vào lạm dụng quyền lực. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Người ở đời, ai cũng có chỗ tốt và chỗ xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”(4).
Hồ Chí Minh chú ý đến lựa chọn đúng cán bộ. Theo Người, việc lựa chọn đúng cán bộ có tác dụng nâng cao hiệu quả KSQLNN nhờ phát huy tốt phẩm chất và năng lực của cán bộ. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu thực hiện tốt việc lựa chọn cán bộ theo bốn nội dung: “a) Những người đã tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh. b) Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng. Luôn luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như thế, thì dân chúng mới tin cậy cán bộ đó là người lãnh đạo của họ. c) Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn cảnh khó khăn... d) Những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật”(5).
Thứ hai, đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ
Để KSQLNN trong công tác cán bộ, Hồ Chí Minh coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ. Đây là một công việc quan trọng, tiến hành thường xuyên, là biện pháp ngăn ngừa tình trạng cán bộ lạm quyền, lộng quyền, tham ô, lãng phí, quan liêu. Bởi theo Hồ Chí Minh những căn bệnh này đều do cán bộ thiếu lý luận, thiếu chuyên môn hoặc thiếu trách nhiệm gây ra.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được Hồ Chí Minh xem là “công việc gốc của Đảng”. Do đó, để hoạt động này có hiệu quả trong ngăn ngừa tha hóa quyền lực, Người yêu cầu nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải tập trung vào nâng cao trình độ lý luận, văn hóa, chuyên môn cho cán bộ. Trong đào tạo, bồi dưỡng về lý luận, Người thường nhắc cán bộ học thì phải hiểu bản chất khoa học, cách mạng của học thuyết Mác - Lênin, đó là một học thuyết mở chứ không phải nhất thành bất biến, và học phải quán triệt tinh thần vận dụng vào giải quyết công việc thực tế của nước ta chứ không phải học một cách giáo điều, kinh viện, áp dụng một cách máy móc.
Đề cập đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về trình độ chuyên môn, Hồ Chí Minh cho rằng, mỗi cán bộ phải biết một nghề để sinh hoạt, ai lãnh đạo trong lĩnh vực nào phải biết chuyên môn về lĩnh vực ấy. Để đáp ứng điều đó, trong công tác huấn luyện “Phải thực hành khẩu hiệu: làm việc gì học việc ấy”(6). Theo Người, nội dung huấn luyện chuyên môn gồm: “1. Điều tra: tình hình có quan hệ với công tác của mình. Thí dụ: môn quân sự, thì điều tra, phân tách, nghiên cứu rõ ràng tình hình của địch, của bạn, của ta, chọn những điểm chính làm tài liệu huấn luyện cho cán bộ. 2. Nghiên cứu: những chính sách, chỉ thị, nghị quyết. Thí dụ: Cán bộ về môn tài chính, phải hiểu rõ chính sách tài chính và những nghị quyết về tài chính của Chính phủ”(7).
Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu cao đối với đào tạo, bồi dưỡng về văn hóa. Người quan niệm đào tạo văn hóa là yêu cầu rất quan trọng đối với cán bộ, đặc biệt với những cán bộ còn kém văn hóa. Người xem đó là nền tảng để phát triển tri thức, là cơ sở để nâng cao trình độ mọi mặt của người cán bộ; đồng thời, giúp cán bộ khắc phục tình trạng kém hiểu biết nên lạm dụng quyền lực, mà không biết bản chất quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Bên cạnh đó, theo Hồ Chí Minh, nếu cán bộ không nắm được những kiến thức thông thường, sẽ rất khó khăn trong nghiên cứu lý luận hoặc học tập chuyên môn, nghiệp vụ và không đủ năng lực để tự kiểm soát quyền lực được giao.
Để nâng cao hiệu quả KSQLNN, Hồ Chí Minh yêu cầu phải nâng cao tinh thần trách nhiệm cho mỗi cán bộ. Đây là vấn đề rất quan trọng giúp Đảng ta kiểm soát tốt hoạt động của các cơ quan quyền lực trong bộ máy nhà nước, và thông qua đó ngăn ngừa tận gốc tình trạng tham ô, lãng phí, quan liêu. Vì vậy, Người yêu cầu nâng cao tinh thần trách nhiệm, không chỉ khẩu hiệu chung chung, mà phải xây dựng thành phong trào sâu rộng ở các cấp, các ngành, nhất là đối với công việc liên quan đến nắm giữ về kinh tế, tài chính. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước, ngày 24-7-1962, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “từ nay, chúng ta bắt đầu mở một cuộc vận động “Nâng cao tinh thần trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, chống tham ô, lãng phí, quan liêu””(8).
Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả KSQLNN thông qua công tác cán bộ, Người yêu cầu các cán bộ nói chung, cán bộ lãnh đạo đứng đầu các cấp, các ngành nói riêng phải luôn nêu gương sáng về đạo đức, về tác phong, về ý chí phấn đấu vươn lên: “các đồng chí bộ trưởng, thứ trưởng và cán bộ lãnh đạo phải luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, phải nêu gương sáng về đạo đức cách mạng: cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn tác phong gian khổ phấn đấu, phải không ngừng nâng cao chí khí cách mạng”(9).
Thứ ba, về bố trí, sử dụng cán bộ
Để hạn chế tình trạng cán bộ bị quyền lực tha hóa, trong bố trí, sử dụng cán bộ, Hồ Chí Minh nêu quan điểm “khéo dùng cán bộ” và “dùng người đúng chỗ, đúng việc”. Đây là cách dùng cán bộ hiệu quả, vì khi dùng đúng người sẽ phát huy được năng lực, nhiệt huyết của cán bộ, qua đó ngăn ngừa tình trạng lạm dụng chức quyền của cán bộ để đạt lợi ích cá nhân. Nội dung này được Hồ Chí Minh bàn tập trung trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (tháng 10-1947). Người viết: “Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong, đều tùy chỗ mà dùng được”(10).
Hồ Chí Minh phê bình những biểu hiện không biết tùy tài mà dùng người. Đồng thời, Người phê bình nghiêm khắc tệ “kéo bè, kéo cánh” trong công tác cán bộ. Theo Người, tệ này phát sinh từ bệnh bè phái, ai hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau; ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là người xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Hậu quả của tình trạng này sẽ làm cho quyền lực nhà nước không được kiểm soát, không phục vụ lợi ích nhân dân, dân tộc, mà rơi vào tay số ít người.
Để khắc phục nguy cơ trên, trong bố trí, sử dụng cán bộ, Hồ Chí Minh yêu cầu khi cất nhắc một cán bộ, phải xem xét toàn diện từ mối quan hệ với quần chúng, có năng lực, sở trường gì để đặt công việc cho thích hợp, tránh sử dụng cán bộ mà không dựa trên khả năng của cán bộ. Do đó, Người phê phán những bệnh: “1. Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người ngoài. 2. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình, mà chán ghét những người chính trực. 3. Ham dùng những người tính tình hợp với mình mà tránh những người tính tình không hợp với mình”(11).
Những chứng bệnh này không chỉ làm tổn hại uy tín, thanh danh của Đảng, mà còn tổn hại danh dự của người lãnh đạo; làm cho hiệu quả công việc ngày càng đi xuống, bởi khuyết điểm ngày càng nhiều do quyền lực không được kiểm soát hiệu quả. Theo đó, Hồ Chí Minh yêu cầu trong cách dùng cán bộ cần có lòng độ lượng, có tinh thần rộng rãi, có tính chịu khó dạy bảo, có sự sáng suốt, có thái độ vui vẻ, thân mật để phát huy hiệu quả công việc trên cơ sở tùy tài mà dùng người; đồng thời hướng vào thực hiện tốt mục đích: “khéo dùng cán bộ, cốt để thực hành đầy đủ chính sách của Đảng và Chính phủ”(12).
Thứ tư, “phải có gan cất nhắc cán bộ”, có chính sách đãi ngộ cán bộ
Theo Hồ Chí Minh, “cất nhắc cán bộ” và chính sách cán bộ có ý nghĩa quan trọng, tác động trực tiếp đến hiệu quả KSQLNN. Vì khi làm tốt khâu này, sẽ sử dụng và phát huy tài năng, động viên cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ; khắc phục cán bộ rơi vào tình trạng lạm dụng quyền lực, hoặc thiếu phẩm chất, năng lực dẫn đến bị quyền lực tha hóa. Do vậy, Người cho rằng, Đảng phải có chính sách đúng đắn để “chiêu hiền đãi sĩ”, “cầu người hiền tài” cho đất nước. Người chỉ rõ: “Phải có gan cất nhắc cán bộ” và “Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”(13).
Hồ Chí Minh lưu ý, phải xem xét thật kỹ trước khi đề bạt cán bộ, sau khi đã đề bạt phải theo dõi, giúp đỡ, kiểm tra cán bộ đó; nếu không như thế thì hỏng việc. Người nhấn mạnh: “Cất nhắc cán bộ, phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế, công việc nhất định chạy”(14). Theo đó, Người yêu cầu khi đã xem xét kỹ lưỡng thì phải sáng suốt cất nhắc cán bộ đó. Điều này, được Người lý giải: “trước khi cất nhắc không xem xét kỹ. Khi cất nhắc rồi không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc lên. Một cán bộ bị nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời”(15).
Hồ Chí Minh yêu cầu phải có chính sách quan tâm, chăm lo cán bộ, việc này có tác dụng và ý nghĩa to lớn, nhằm tạo ra động lực vật chất, tinh thần để nâng cao chất lượng công việc của đội ngũ cán bộ. Người khẳng định: “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu”(16). Theo Hồ Chí Minh, thực hiện chính sách đối với cán bộ cần chú ý đến các nội dung: hiểu biết cán bộ; khéo sử dụng cán bộ; cất nhắc cán bộ cho đúng; thương yêu cán bộ; bảo đảm tiền lương cho cán bộ; phê bình cán bộ. Người lưu ý các cấp ủy đảng cần khắc phục tình trạng “các cấp, các ngành phụ trách lại chưa quan tâm đúng mức đến vật chất và tinh thần của các cô, các chú, chưa làm đúng như Đảng và Chính phủ đã quy định”(17). Nếu để tình trạng đó kéo dài, có thể làm cho cán bộ nảy sinh tư tưởng lợi ích cá nhân dẫn đến lạm quyền, lộng quyền. Do vậy, dù trong điều kiện kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng Người đặc biệt lưu ý chế độ lương bổng cho cán bộ cùng với các lực lượng khác trong xã hội, để không chỉ cải thiện đời sống cán bộ mà còn giúp cán bộ tránh bị quyền lực tha hóa.
Thứ năm, kiểm tra, giám sát và kỷ luật cán bộ
Kiểm tra, giám sát và kỷ luật cán bộ được Hồ Chí Minh xác định là khâu quan trọng để KSQLNN trong toàn bộ các khâu của công tác cán bộ. Theo Người, công tác kiểm tra, giám sát cán bộ góp phần phát hiện và giúp đỡ cán bộ, cơ quan nhà nước sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, từ đó, thực thi hiệu quả quyền lực được nhân dân ủy quyền. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu các cấp ủy đảng phải tăng cường công tác kiểm tra, vì Đảng ta là đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền, nên “kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm tròn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân”(18). Người nêu rõ: “Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”(19).
Hồ Chí Minh chỉ ra ba cách kiểm tra, gồm: Một là, kiểm tra phải có tính hệ thống, đồng bộ và quyết liệt. Hai là, kiểm tra không chỉ dựa vào báo cáo mà phải dựa vào thực tế. Ba là, kiểm tra phải biết phê bình đúng cách. Đồng thời, Hồ Chí Minh yêu cầu “Cấp trên phải thường kiểm tra cấp dưới. Cấp dưới phải phê bình cấp trên”(20). Người lưu ý, trong hoạt động kiểm tra cần phải biết “kiểm tra khéo” để có thể rút ra đánh giá, nhận xét xác đáng về tình hình thực thi quyền lực của đội ngũ cán bộ, công chức, vì “Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”(21).
Đối với hoạt động giám sát cán bộ, Hồ Chí Minh quan niệm, công tác giám sát phải được chú trọng và tiến hành đồng thời cả hai mặt: mặt thứ nhất là từ lãnh đạo đối với cấp dưới và đối với nhân viên theo nguyên tắc “Cấp dưới cần phải báo cáo. Cấp trên cần phải kiểm soát”(22); mặt thứ hai là từ quần chúng nhân dân đối với cơ quan nhà nước, với cán bộ, công chức, viên chức. Trong đó, Hồ Chí Minh chú ý, phải giám sát cán bộ theo tinh thần “luôn luôn kiểm soát cán bộ”(23) và “dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM”(24).
Một công tác nữa mà Hồ Chí Minh rất coi trọng, nhằm KSQLNN trong công tác cán bộ là Đảng phải bảo đảm kỷ luật nghiêm minh. Người nêu rõ: “Kỷ luật nghiêm để bảo đảm tư tưởng nhất trí và hành động thống nhất của toàn Đảng, toàn dân”(25). Theo Người, kỷ luật đảng là thứ kỷ luật thép, đây là căn cứ răn đe, cũng như giúp cán bộ, đảng viên có thể khắc phục sai lầm, khuyết điểm; làm cho Đảng thống nhất ý chí và hành động; ngăn ngừa đội ngũ cán bộ của Đảng trong các cơ quan nhà nước lạm dụng quyền lực. Đối với cán bộ thiếu trách nhiệm, không làm tròn nhiệm vụ với dân, với nước, không có uy tín trong quần chúng, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước, thì cũng phải xem xét, xử lý thật nghiêm theo tinh thần: “thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công”(26) và “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”(27).
2. Định hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực nhà nước trong công tác cán bộ hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN trong công tác cán bộ được Đảng ta hiện thực hóa trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Nhà nước dân chủ mới ở Việt Nam. Quan điểm của Người vẫn giữ nguyên giá trị lý luận, có tính thời sự sâu sắc trong định hướng việc KSQLNN hiện nay.
Ở Việt Nam nhiều năm qua, KSQLNN trong công tác cán bộ đã được coi trọng và có nhiều chuyển biến tích cực. Đảng ta đã ban hành Quy định số 205/QĐ-TW, ngày 23-9-2019 của Bộ Chính trị “về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền” và Quy định số 114/QĐ-TW, ngày 11-7-2023 của Bộ Chính trị “về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ”.
Đánh giá về việc KSQLNN trong công tác cán bộ, Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo từng bước hoàn thiện thể chế về công tác cán bộ; xây dựng, bổ sung, sửa đổi và ban hành mới nhiều quy định, quy chế về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử và kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền;”(28) và “... đẩy mạnh thí điểm đổi mới cách tuyển chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý, bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch, chặt chẽ hơn. Việc chống chạy chức, chạy quyền được coi trọng, có chuyển biến. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới, nâng cao kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ các cấp, gắn với tiêu chuẩn chức danh và quy hoạch cán bộ được quan tâm, chú trọng và đầu tư tương xứng”(29).
Tuy nhiên, việc KSQLNN trong công tác cán bộ vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm do chưa được thực hiện sát sao, thiếu đồng bộ và chưa toàn diện. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, mặc dù đã có nhiều đổi mới nhưng vẫn còn không ít trường hợp chưa phản ánh đúng thực chất. Việc bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử có nơi chưa bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, cá biệt có nơi bố trí người nhà, người thân chưa đủ uy tín. Chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều; nhiều cán bộ còn thiếu tính chuyên nghiệp”(30) và “nhiều nơi còn tình trạng nể nang, chưa chỉ rõ những cán bộ có biểu hiện chạy chức, chạy quyền, cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực”(31). Do đó, để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN trong công tác cán bộ hiện nay, cần chú ý các định hướng giải pháp:
Một là, nâng cao nhận thức của các chủ thể về kiểm soát quyền lực nhà nước trong công tác cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng được”(32). Nếu đơn giản về nhận thức, hoặc nhận thức về KSQLNN trong công tác cán bộ chưa đầy đủ, sâu sắc, sẽ dẫn đến thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo vận dụng tư tưởng của Người vào KSQLNN trong công tác cán bộ hiện nay. Theo đó, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục làm cho cấp ủy các cấp, nhất là người đứng đầu, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, Mặt trận Tổ quốc và các tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc, toàn diện về nội dung, giá trị các quan điểm, cũng như tấm gương mẫu mực, tận hiến của Hồ Chí Minh trong lãnh đạo, chỉ đạo hiệu quả việc KSQLNN trong công tác cán bộ.
Quán triệt và thực hiện nghiêm Quy định số 114/QĐ-TW, ngày 11-7-2023 của Bộ Chính trị “về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ”; quan điểm của Đại hội XIII của Đảng về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu”(33), làm cho các chủ thể tự giác học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN trong công tác cán bộ.
Hai là, phát huy vai trò của cấp ủy, cơ quan chức năng các cấp để kiểm soát quyền lực nhà nước trong công tác cán bộ
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN trong công tác cán bộ, cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan chức năng (ban tổ chức cấp ủy, cơ quan tổ chức - cán bộ, cơ quan nội vụ, các cơ quan được giao phối hợp trong công tác đề xuất, nhận xét, đánh giá, thẩm định cán bộ,...) phải thường xuyên nâng cao hiệu quả công tác theo đúng nguyên tắc, các khâu trong công tác cán bộ, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch đối với các đối tượng có liên quan theo Quy định số 114/QĐ-TW. Đồng thời, cần thường xuyên kiểm tra, giám sát, rà soát chặt chẽ các khâu, các bước của quy trình công tác cán bộ; tập trung đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác đánh giá, nhận xét, lựa chọn, bố trí, sử dụng cán bộ; quy hoạch; đào tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ và kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm cán bộ vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước.
Bên cạnh đó, để KSQLNN hiệu quả, công tác cán bộ cần sâu sát thực tế, tránh mọi biểu hiện chủ quan, qua loa, đại khái; coi trọng phát hiện và lựa chọn cán bộ trẻ có phẩm chất, năng lực, cán bộ nữ ở các cấp, bảo đảm cơ cấu, có sự kế thừa và liên tục trong xây dựng nguồn cán bộ. Qua đó, công tác cán bộ sẽ góp phần nâng cao hiệu quả việc phòng ngừa các biểu hiện lạm quyền, lộng quyền của các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước.
Ba là, đổi mới thể chế Đảng lãnh đạo việc kiểm soát quyền lực nhà nước trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN trong công tác cán bộ, cần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với công tác cán bộ, các ban cán sự đảng trong từng nhánh của quyền lực nhà nước. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế Đảng lãnh đạo công tác cán bộ, cải cách thủ tục hành chính và đẩy mạnh phân cấp, phân quyền về công tác cán bộ”(34). Theo đó, việc thể chế hóa quan điểm của Đảng về công tác cán bộ cần được luật hóa thành các chế định của văn bản quy phạm pháp luật, phù hợp với sự phát triển của thực tiễn.
Bổ sung, hoàn thiện quy phạm pháp luật về vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong các cơ quan của bộ máy công quyền; nâng cao tính răn đe của các chế tài xử lý đối với cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, lộng quyền, vi phạm kỷ luật, pháp luật theo quan điểm “Xử lý nghiêm minh, đồng bộ giữa kỷ luật của Đảng với kỷ luật của Nhà nước và xử lý bằng pháp luật đối với cán bộ vi phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu”(35) và tinh thần “không bao che, không dung túng, không có vùng cấm, không có ngoại lệ”.
Ngoài ra, cần triển khai và thực hiện hiệu quả các biện pháp tăng cường kiểm tra, giám sát của Đảng, cơ quan, đơn vị, tổ chức đoàn thể, báo chí, truyền thông và nhân dân để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ.
Bốn là, chăm lo đến chính sách cán bộ và nâng cao trách nhiệm từng cán bộ trong tự bồi dưỡng, rèn luyện, tự kiểm soát quyền lực
Để nâng cao hiệu quả KSQLNN trong công tác cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục cụ thể hóa các chủ trương về chính sách đối với cán bộ, và phát huy vai trò từng cán bộ trong tự bồi dưỡng, rèn luyện, tự kiểm soát quyền lực. Theo đó, cần tiếp tục nghiên cứu, ban hành và triển khai thực hiện chính sách đối với cán bộ, nhất là chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài; chính sách đãi ngộ cán bộ bằng tiền lương, phụ cấp tương xứng với cống hiến của cán bộ trên từng vị trí đảm nhiệm. Quan tâm chính sách cán bộ, tạo động lực cho cán bộ phấn đấu và cống hiến trong công việc; giúp cán bộ tự phòng ngừa các biểu hiện tiêu cực nảy sinh do chính sách đãi ngộ chưa tương xứng.
Cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị phải nêu gương, làm gương và thường xuyên có biện pháp khích lệ, động viên từng cán bộ nâng cao trách nhiệm trong tự bồi dưỡng, rèn luyện, tự kiểm soát quyền lực; chú ý nâng cao trách nhiệm của cán bộ theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh là “vì nhân dân phục vụ”.
TS TRỊNH QUỐC VIỆT
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
_________________
(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (10), (11), (12), (13), (14), (15), (16), (19), (21), (22), (23) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.314, 317, 317, 318, 315, 309, 310, 88, 318, 319, 313, 321, 322, 313, 636, 327, 300, 314.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, Sđd, tr.415.
(9), (18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, Sđd, tr.223, 362.
(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Sđd, tr.350.
(20), (24), (27), (32) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Sđd, tr.312, 127, 127, 360.
(25) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Sđd, tr.31.
(26) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.4, Sđd, tr.189.
(28), (29), (30), (31), (33), (34), (35) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.96, 192-193, 201, 197, 242, 243, 244.