1. Quan điểm Hồ Chí Minh về đấu tranh phòng, chống tham ô
Trực tiếp sáng lập, giáo dục, rèn luyện Đảng ta, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, xây dựng chế độ dân chủ mới, Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chú trọng việc phòng, chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực. Người chỉ rõ, tham ô là lấy của công làm của tư, là gian lận, tham lam, là “trộm cướp”.
Người chỉ rõ những biểu hiện, các hành vi tham ô: “Tham ô là gì? Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công làm của tư, đục khoét của nhân dân. Ăn bớt của bộ đội. Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung, của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình, cũng là tham ô. Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế”(1).
Đặc trưng bản chất của hành vi tham ô là biến “của công” thành “của tư”. Theo Hồ Chí Minh, “của công” chính là tài sản của nhân dân, do nhân dân đóng góp, phục vụ mục đích chung là giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước; “của công” thành “của tư” tức là tài sản chung khi không nhằm phục vụ mục đích chung mà chỉ dành làm của riêng, quỹ riêng cho một tập thể, một địa phương. Bất cứ hành vi lấy “của công” làm “của tư” nào cũng đều là hành vi tham ô. Đây chính là hình thức tham ô trực tiếp. Trong hình thức này, chủ thể của hành vi tham ô không chỉ là cán bộ, đảng viên - những người nắm chức vụ, quyền hạn nhất định trong bộ máy nhà nước. Người dân thường không có chức vụ, nếu “ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế” cũng có thể coi là chủ thể của hành vi tham ô.
Hồ Chí Minh còn chỉ ra một hình thức tham ô tinh vi, rất khó nhận thấy trong cuộc sống đời thường, đó là tham ô gián tiếp. Người nói về tham ô gián tiếp: “Thí dụ một cán bộ, Chính phủ, nhân dân trả lương hàng tháng đều cho, nhưng lại kém lòng trách nhiệm, đứng núi này trông núi nọ, làm việc chậm chạp, ăn cắp giờ của Chính phủ, của nhân dân”(2).
Đây là hình thức tham ô tuy không nhanh chóng gây hậu quả vật chất như những hành vi trực tiếp chiếm đoạt tài sản công, nhưng tham ô gián tiếp xảy ra hằng ngày, thường xuyên, liên tục, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu lực quản lý của Nhà nước, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, là một trong những mối nguy hại lớn đối với sự nghiệp cách mạng.
Nguyên nhân sinh ra tham ô. Theo Hồ Chí Minh, nguyên nhân sâu xa sinh ra tệ nạn tham nhũng là chủ nghĩa cá nhân. Bởi theo Người, chủ nghĩa cá nhân là một thứ trở lực nằm ngay trong mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi con người. Người giải thích, chủ nghĩa cá nhân thường đặt lợi ích riêng lên trên lợi ích chung, chỉ muốn hưởng thụ, đãi ngộ, còn công việc thì lười nhác, so bì hơn thiệt, công thần, địa vị. Người chỉ rõ sự nguy hại của chủ nghĩa cá nhân, mà tham ô, lãng phí là một biểu hiện: “Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành”(3). “Họ không quan tâm đến đời sống của nhân dân mà chỉ lo nghĩ đến lợi ích của riêng mình. Họ quên rằng, mỗi đồng tiền, hạt gạo đều là mồ hôi nước mắt của nhân dân, do đó mà sinh ra phô trương, lãng phí. Họ tự cho mình có quyền sống xa hoa hưởng lạc, từ đó mà đi đến tham ô, trụy lạc, thậm chí sa vào tội lỗi. Tất cả những lỗi lầm nói trên đều là con đẻ của chủ nghĩa cá nhân”(4).
Người còn chỉ ra một số nguyên nhân khác dẫn đến tham ô, tiêu cực như: do trình độ non kém, thiếu kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ; độc đoán đưa ra những quyết định sai lầm gây tốn kém tiền công quỹ của Nhà nước hoặc do chủ ý “ném tiền qua cửa sổ”, coi của công là “của chùa”; do thói ăn uống, biếu xén, tiêu xài xa hoa, lãng phí; do chế độ cũ để lại.
Về tác hại của tham ô. Tham ô là lỗ hổng trực tiếp làm thất thoát, thiệt hại tài sản của Nhà nước, của nhân dân. Sinh thời, Người luôn coi tham ô, lãng phí và quan liêu là ba kẻ thù hết sức nguy hiểm, là “bạn đồng minh của thực dân, phong kiến”. Người chỉ rõ: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ”, nó là “Kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta”(5).
Trong ba kẻ thù trên, tham ô là kẻ thù nguy hiểm nhất, bởi đó là hành động xấu xa nhất, tội lỗi đê tiện nhất trong xã hội. Người xếp tham ô ngang hàng với tội phản quốc. Người nhấn mạnh: “Đồng bào luôn luôn vui lòng đóng góp, bộ đội luôn sẵn sàng hy sinh để kháng chiến, kiến quốc. Trong lúc đó, một bọn không có lương tâm, tham ô, lấy của công làm của tư, hoặc lãng phí, tiêu xài bừa bãi; chúng làm thiệt hại đến bộ đội, đến nhân dân, đến Chính phủ và đoàn thể. Như vậy, không khác gì giúp cho giặc phá hoại ta”(6). Tham ô còn làm tha hóa, suy thoái đạo đức cách mạng, phá hoại tinh thần trong sạch, ý chí vượt khó của cán bộ, làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước.
Về biện pháp phòng, chống chống tham ô. Xuất phát từ tác hại của tham ô mà việc phòng, chống tệ nạn này là một yêu cầu tất yếu khách quan, mang tính cấp thiết của cách mạng. Hồ Chí Minh coi đây là “một cuộc cách mạng nội bộ, một cuộc đấu tranh gay go giữa cái tốt và cái xấu, cái cũ và cái mới, giữa đạo đức cách mạng là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và kẻ địch là tệ nạn tham ô, lãng phí, quan liêu”(7). Để phòng, chống có hiệu quả những tệ nạn đó, đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ các biện pháp, trong đó Người đề cập một số biện pháp sau:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham ô. Theo Hồ Chí Minh, đây là biện pháp quan trọng hàng đầu, quyết định đến hiệu lực, hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tham ô. Người nêu rõ: “Cũng như ở các mặt trận khác, muốn thắng ở mặt trận này, ắt phải có chuẩn bị, kế hoạch, tổ chức, ắt phải có lãnh đạo và trung kiên”(8). Theo Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố quan trọng nhất, quyết định đến thành bại của cuộc đấu tranh PCTN.
Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về tác hại, sự nguy hiểm của căn bệnh tham ô, tham nhũng cũng như ý nghĩa của công tác phòng, chống bài trừ, tiêu diệt nó. Theo Người, đây là biện pháp quan trọng hàng đầu trong cuộc chiến chống tham nhũng. Người quan niệm: “Trong phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu, giáo dục là chính, trừng phạt là phụ”(9). Người chỉ ra mục đích của việc tuyên truyền, giáo dục là nhằm nâng cao nhận thức, phát huy tinh thần tích cực, tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân. Theo Người, phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao tính tự nguyện, tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân, có như vậy mới mang lại hiệu quả lâu dài và triệt để. Qua công tác tuyên truyền, giáo dục sẽ giúp nêu gương tốt, lên án các hành vi tham ô, lãng phí, góp phần vào việc ngăn chặn nạn tham ô, lãng phí. Hồ Chí Minh khẳng định: “Phải khai hội đủ mặt mọi người trong cơ quan, đơn vị, trường học, v.v.. để giải thích rõ ràng, nói đi nói lại, cho mọi người đều hiểu: Tham ô, lãng phí, quan liêu có hại cho dân cho nước thế nào? Vì sao phải chống những nạn ấy?”(10).
|
Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là thứ vi trùng rất độc, là kẻ thù nguy hiểm gây ra mọi sai lầm, tội lỗi trong đó có tệ tham ô, lãng phí, quan liêu. Chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc dẫn đến nhiều sai lầm, khuyết điểm. Hồ Chí Minh đã nhiều lần cảnh báo: “Chủ nghĩa cá nhân đang ám ảnh một số đồng chí. Họ tự cho mình cái gì cũng giỏi, họ xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng mà chỉ muốn làm thầy quần chúng. Họ ngại làm việc tổ chức, tuyên truyền và giáo dục quần chúng. Họ mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh”(11).
Cùng với công tác giáo dục, rèn luyện, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng ban hành sắc lệnh trừng trị nghiêm khắc những người cố tình vi phạm. Ngày 26-01-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Quốc lệnh, quy định cụ thể 10 điều thưởng và 10 điều phạt, cho quân và dân biết rõ những điều nên tránh, những việc nên làm. Trong đó điều phạt thứ 8 đã quy định: “Trộm cắp của công sẽ bị xử tử”. Năm 1950, giữa lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra ác liệt, tòa án đã xét xử nguyên đại tá Trần Dụ Châu, mức án tử hình vì tội biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bác đơn xin giảm tội của Trần Dụ Châu.
Để phòng, chống tham ô hiệu quả, Hồ Chí Minh yêu cầu nhân dân phải biết phát huy quyền làm chủ của mình. Người cho rằng: “Quan tham vì dân dại”, nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì “quan” dù không liêm, cũng phải hoá ra LIÊM. Vì vậy, dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM”. Theo Người, phòng, chống tham ô, tiêu cực không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước của các cơ quan chức năng mà còn là trách nhiệm của nhân dân. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Để giành lấy thắng lợi, chúng ta phải nắm vững chính sách của Đảng, đi đúng đường lối quần chúng, phải dựa vào lực lượng của quần chúng, phải lắng nghe ý kiến của quần chúng, phải thật sự mở rộng dân chủ”(12).
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống tham nhũng hiện nay
Một là, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục các quan điểm của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của các cấp ủy, tạo sự tự giác, thống nhất cao về ý chí và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân phòng, chống tham nhũng (PCTN)
Triển khai thực hiện toàn diện và nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của Trung ương về công tác PCTN. Chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền và người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả và kiểm tra việc thực hiện các quy định của Đảng, nhà nước về PCTN. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho mọi cán bộ và người dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc về tính nghiêm trọng, sự nguy hại của tệ tham nhũng và tính cấp thiết, lâu dài, phức tạp, khó khăn của cuộc đấu tranh PCTN; nâng cao hiểu biết, kiến thức pháp luật về PCTN cho cán bộ và người dân. Thường xuyên quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ làm công PCTN ở các cơ quan, đơn vị, địa phương.
Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và người đứng đầu phải thực sự coi công tác PCTN là một trọng tâm công tác lớn của công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị; xác định rõ các lĩnh vực trọng tâm, địa bàn trọng điểm để tập trung chỉ đạo. Lựa chọn bố trí những cán bộ có năng lực, bản lĩnh và phẩm chất đạo đức làm công tác PCTN. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc; đưa công tác PCTN vào chương trình công tác tháng, quý, năm, kết quả công tác PCTN trở thành một trong các tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương. Đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình, chủ động phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng ngay trong từng cơ quan, đơn vị, địa phương. Nâng cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu trong việc chủ động tự phát hiện hành vi tham nhũng trong cơ quan, đơn vị, địa phương, qua đó kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng.
Hai là, đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực để PCTN trong cán bộ, công chức
Đây là giải pháp rất quan trọng trong hệ thống các giải pháp PCTN hiện nay. Bởi vì, kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo của Đảng, đồng thời, là bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng. Trên thực tế, Đảng đề ra chủ trương, đường lối, tổ chức thực hiện… và phải kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, Cương lĩnh chính trị, chủ trương, chính sách và kiểm tra cả các tổ chức tiến hành kiểm tra. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”(13).
Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, siết chặt kỷ cương, kỷ luật đảng, kiên quyết ngăn chặn, phòng chống các biểu hiện lạm quyền, lộng quyền và lợi dụng quyền lực của cán bộ là một giải pháp có ý nghĩa rất quan trọng trong PCTN.
Nội dung kiểm tra, giám sát tập trung vào việc: Chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về PCTN; thực hiện quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết nội bộ; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; việc lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện kiểm tra, giám sát, thanh tra, thực hiện kiến nghị của kiểm toán, xử lý các vụ việc; tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án các vụ án tham nhũng, tiêu cực; giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; những điều đảng viên không được làm; kê khai tài sản, thu nhập.
Trong quá trình thực hiện, cấp ủy đảng, cơ quan kiểm tra các cấp phải bám sát tình hình thực tiễn ở địa phương, đơn vị để kịp thời điều chỉnh nội dung, đối tượng, phạm vi kiểm tra, giám sát cho phù hợp với tình hình thực tế ở từng địa phương.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về PCTN
Đây là nội dung, biện pháp rất quan trọng để ngăn chặn, loại bỏ ngay từ trong suy nghĩ, tham muốn về tham nhũng, tiêu cực, để cán bộ, công chức “không dám” tham nhũng, tiêu cực. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội, về kiểm tra, giám sát và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhất là các quy định về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm người đứng đầu, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch”(14). Trong thời gian tới, cần nghiên cứu, hoàn thiện các quy định về công tác cán bộ, về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm người đứng đầu, cán bộ chủ trì, chủ chốt các cơ quan, đơn vị, địa phương. Hoàn thiện quy định chặt chẽ để ngăn chặn những người có chức, quyền hạn “không thể” lợi dụng để trục lợi; quy định về cho thôi, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý khi cá nhân hoặc cơ quan, đơn vị, địa phương xảy ra các vụ việc tham nhũng; quy định về điều chuyển, thay thế cán bộ khi có dư luận hoặc có biểu hiện tham nhũng, thoái hóa, biến chất và các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, uy tín thấp; tiếp tục thực hiện nghiêm cơ chế, chính sách về tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật.
Hoàn thiện cơ chế, quy định về quản lý kinh tế. Trong đó, chú trọng hoàn thiện các quy định trong quản lý, kiểm soát chặt chẽ việc thu, chi ngân sách; các khoản chi cho đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm từ ngân sách nhà nước.
Xây dựng quy chế công minh bạch tài sản thu nhập của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, cán bộ, đảng viên giữ chức vụ cao trong tổ chức đảng và chính quyền; xây dựng quy chế làm việc, thực thi công vụ ở nhưng vị trí trực tiếp giải quyết yêu cầu của công dân và doanh nghiệp. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện quy định về xử lý tài sản tham nhũng, đưa ra các biện pháp kiên quyết, mạnh mẽ và cứng rắn hơn. Xây dựng cơ chế bảo vệ và biểu dương, khen thưởng những cán bộ, đảng viên và nhân dân dũng cảm tố cáo, phát hiện những hành vi tham nhũng. Đồng thời, có cơ chế xử lý nghiêm những người bao che, ngăn cản việc PCTN hoặc lợi dụng sự việc để vu khống, làm hại người khác, gây mất đoàn kết nội bộ.
Bốn là, phát huy tính tích cực, tự giác trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, công chức
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở đảng viên: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư””(15). Mỗi cán bộ, đảng viên, dù ở vị trí công tác nào cũng phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện để giữ vững phẩm chất đạo đức, tư cách của người cán bộ cách mạng. Thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức sẽ dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống. Hệ quả là mắc vào các tệ nạn, mà điển hình là tệ tham nhũng, từ đó vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”(16). Vì vậy, việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cốt là để giữ vững gốc của người cách mạng. Việc tu dưỡng, rèn luyện của bản thân phải được tiến hành thường xuyên, liên tục ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi điều kiện hoàn cảnh; phải có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, không khuất phục, sa ngã trước cám dỗ của tiền tài, vật chất, địa vị, danh vọng. Muốn vậy, mỗi cán bộ phải kiên định, tẩy trừ chủ nghĩa cá nhân trong chính bản thân mình, đặt lợi ích của tập thể, của nhân dân lên trên, lên trước. Trong lãnh đạo, chỉ đạo cũng như trong cuộc sống thường ngày phải luôn đề cao đức tính liêm khiết, thanh liêm của người cán bộ, đảng viên.
Năm là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên các cấp, vai trò của nhân dân trong giám sát đối với cán bộ, đảng viên
Tăng cường, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở và hoạt động của ban thanh tra nhân dân trong PCTN. Các cấp ủy, chính quyền tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng nâng cao vai trò, trách nhiệm trong PCTN; chú trọng đăng tin bài định hướng đúng đắn dư luận xã hội, duy trì việc xây dựng kế hoạch, bố trí chuyên trang, chuyên mục và thời lượng hợp lý để tuyên truyền, nhằm cung cấp kịp thời, đúng pháp luật cho công chúng những thông tin có liên quan đến tham nhũng; thực hiện có hiệu quả Quy định số 65-QĐ/TW ngày 03-02-2017 của Ban Bí thư về chỉ đạo, định hướng cung cấp thông tin tuyên truyền PCTN, nhất là chủ động thông tin về kết quả kiểm tra, thanh tra, xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm; về khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế; về những vấn đề nhạy cảm, dư luận xã hội quan tâm trong xử lý tham nhũng; gương người tốt, việc tốt, tích cực, dũng cảm đấu tranh PCTN.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân đang đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu phải luôn thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về PCTN. Trên cơ sở đó, cụ thể hoá, thể chế hóa tư tưởng của Người vào hoạt động thực tiễn của mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương. Mỗi người đề cao, coi trọng danh dự, bổn phận với gia đình, dòng họ và nhân dân sẽ tẩy trừ chủ nghĩa cá nhân, không sa vào tham nhũng, tiêu cực. Thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”, “tự gột rửa mình” là cách tốt nhất để tránh xa những cám dỗ vật chất, tiền tài, địa vị, danh vọng. Nâng cao phẩm chất, nhân cách của người cán bộ là cách tốt nhất để PCTN, qua đó xứng đáng với niềm tin của nhân dân.
_______________
(1), (2), (5), (6), (8), (9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.355, 345, 357, 452, 358, 361, 358.
(3),(21) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđd, 2011, tr.547.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, Sđd, 2011, tr.469.
(7), (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, Sđd, 2011, tr.421, 421.
(11), (15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Sđd, 2011, tr.609, 601.
(13) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.197.
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Sđd, 2011, tr.127.
NGUYỄN VĂN PHƯƠNG
NCS Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh