Xây dựng, chỉnh đốn Đảng để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng

Trong tác phẩm Đường Cách mệnh, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nêu rõ “Cách mệnh trước hết phải có Đảng cách mệnh”. Để Đảng thực hiện tốt trọng trách lãnh đạo sự nghiệp cách mạng thì công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được thực hiện thườ

Từ 95 năm trước (1927) trong tác phẩm Đường Cách mệnh, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nêu rõ “Cách mệnh trước hết phải có Đảng cách mệnh”. Theo đó, để Đảng thực hiện tốt trọng trách lãnh đạo sự nghiệp cách mạng thì công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được thực hiện thường xuyên, thực chất, gắn liền với hoàn thiện hệ thống chính trị.

Toàn cảnh hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai Kết luận và Quy định của Ban chấp hành Trung ương về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng - (Ảnh: TTXVN)

Từ khi thành lập vào mùa Xuân năm 1930 và suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn chú trọng công tác xây dựng Đảng theo những nội dung mà người sáng lập Đảng đã nhấn mạnh, đó là Đảng phải có mục tiêu chính trị rõ ràng giành lại độc lập cho dân tộc, xây dựng một xã hội mới vì tự do, hạnh phúc của đồng bào; Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu và phải theo chủ nghĩa ấy; Đảng được tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm minh và những cán bộ trung kiên; phải giáo dục đạo đức, tư cách của người cách mệnh.... Những điều đó quyết định bản chất cách mạng và khoa học của một Đảng chân chính cách mạng.

Quá trình lãnh đạo cách mạng cũng có lúc một bộ phận, một số đồng chí phạm sai lầm khuyết điểm (như sai lầm “tả” khuynh của Xứ ủy Trung Kỳ trong chủ trương thanh đảng 1931 đã được Trung ương phê phán và sửa chữa kịp thời. Sai lầm của một số đồng chí trong tham gia bầu cử ở Nam Kỳ 1939 đã được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đề cập trong tác phẩm Tự chỉ trích). Điều đó đặt ra yêu cầu phải hết sức coi trọng xây dựng Đảng về mọi mặt mới bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.

Cũng như thời kỳ Đảng lãnh đạo đấu tranh giành độc lập, giành chính quyền, sau Cách mạng Tháng Tám 1945, phần đông cán bộ, đảng viên hăng hái đi đầu lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, nhưng cũng có một số cán bộ nắm chính quyền hư hỏng, mắc các căn bệnh như trái phép, cậy thế, tư túng, hủ hóa, chia rẽ, kiêu ngạo. Tháng 10/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc đề cập đầy đủ, sâu sắc những vấn đề căn bản về xây dựng Đảng. Người còn chỉ ra nhiều căn bệnh đều bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân như tham lam, lười biếng, hiếu danh, thiếu kỷ luật, hẹp hòi, địa phương, bè cánh... “Những tật bệnh đó khiến cho Đảng xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bê trễ. Chính sách không thi hành được triệt để. Đảng xa rời dân chúng”(1). Lần đầu tiên Hồ Chí Minh viết về Công việc chỉnh đốn Đảng - một việc rất cần thiết khi trong Đảng có những biểu hiện suy thoái, tiêu cực. Theo đó, phải chỉnh đốn từ tư tưởng, nhận thức chính trị, tổ chức, kỷ luật đến đạo đức, phong cách, lối sống.

Công cuộc đổi mới từ năm 1986 do Đảng khởi xướng và lãnh đạo trải qua hơn 35 năm đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nguyên nhân hàng đầu là do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Sự lãnh đạo đúng đắn lại phụ thuộc kết quả của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Suốt quá trình đổi mới, xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nhiều thành công, kết quả rõ rệt. Đại hội XIII của Đảng cho rằng kết quả của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhờ “Kết hợp chặt chẽ, hài hòa, hiệu quả giữa xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trong đó xây dựng Đảng được tập trung đẩy mạnh, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, tăng cường. Đề cao trách nhiệm của cấp ủy, sự gương mẫu của cấp trên và người đứng đầu các cấp; phát huy dân chủ; tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng; huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân. Nhiều vấn đề khó, phức tạp đặt ra và thực hiện từ nhiều năm trước nhưng hiệu quả thấp, đến nay đã đạt được kết quả quan trọng”(2).

Từ kết quả đã đạt được, Đại hội XIII đã làm rõ một số kinh nghiệm trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó là, nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng; phải đặc biệt coi trọng sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng; thấm nhuần sâu sắc quan điểm công tác cán bộ là nhiệm vụ “then chốt” của công tác xây dựng Đảng; xây dựng Đảng phải gắn kết chặt chẽ với lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. “Kết hợp chặt chẽ, đồng bộ, toàn diện, hiệu quả giữa xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trong đó xây dựng Đảng là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, cấp bách; đồng thời, xác định đúng trọng tâm, trọng điểm, khâu đột phá”(3). Trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, cách làm bài bản, dân chủ, chắc chắn và có bước đi phù hợp.

Những kết quả và kinh nghiệm xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong công cuộc đổi mới, nhất là trong nhiệm kỳ khóa XII, là cơ sở và động lực rất quan trọng để thực hiện phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp của công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ Đại hội XIII, với phương hướng căn bản là: “Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước”(4).

Văn kiện Đại hội XIII đã xác định đầy đủ, có hệ thống nội dung xây dựng Đảng, cần được nghiên cứu kỹ và nghiêm túc thực hiện. Cần nhấn mạnh những điểm cơ bản và cốt yếu. Cốt lõi của nhiệm vụ xây dựng Đảng về chính trị là kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH), kiên định đường lối đổi mới. Đấu tranh, phản bác có hiệu quả quan điểm sai trái của các thế lực thù địch. Phát huy tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ, bè phái. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng. Nâng cao năng lực thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng. Khắc phục những yếu kém, trì trệ, tình trạng né tránh trách nhiệm trong lãnh đạo, điều hành. Xây dựng Đảng về tư tưởng. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng, bảo đảm tính đảng, tính khoa học, tính chiến đấu, tính thực tiễn, kịp thời và hiệu quả; nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Công tác tư tưởng phải kết hợp giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, làm cho tư tưởng tiến bộ, tích cực thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, có tác dụng uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, cải tạo những tư tưởng lạc hậu, đẩy lùi những sai trái. Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Tăng cường giáo dục truyền thống vẻ vang của Đảng, học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thiết thực, có hiệu quả. Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức. Kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII, triển khai đồng bộ, quyết liệt những kết luận của Hội nghị xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn quốc (9/12/2021) và chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị này. “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc để làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện, tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng; đấu tranh có hiệu quả với mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu, cơ hội, cục bộ, bè phái, mất đoàn kết nội bộ”(5).

Chú trọng xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ. Điểm mới của Đại hội XIII là Đảng nhấn mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn liền với xây dựng hoàn thiện hệ thống chính trị. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, để nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, cần thiết phải xây dựng cả hệ thống chính trị vững mạnh. Đảng mạnh cần phải có Nhà nước mạnh, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh và ngược lại. Cần phải xử lý tốt hơn mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đại hội XIII nhấn mạnh nhiệm vụ: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị.

Là Đảng cầm quyền, vì vậy yêu cầu khách quan đặt ra ở mọi thời kỳ cách mạng là Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, lý luận, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Đảng vững mạnh mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử của Đảng cầm quyền giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập và xây dựng thành công CNXH vì đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc. Đảng cầm quyền bằng Nhà nước và cả hệ thống chính trị, nên Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội phải vững mạnh thật sự.

Trong công cuộc đổi mới, Đảng đã đổi mới tư duy, chuyển từ xây dựng Nhà nước chuyên chính vô sản (trước đổi mới) sang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đó cũng là một trong 8 đặc trưng của mô hình CNXH Việt Nam do Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đề ra. Khái niệm Hệ thống chính trị thay cho khái niệm Hệ thống chuyên chính vô sản (1989). Đó là một nội dung căn bản trong đổi mới chính trị phù hợp với sự nghiệp đổi mới toàn diện, thay đổi cơ chế quản lý và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế.

Đảng tập trung lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, từng bước làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn phù hợp với Việt Nam. Đã định hình những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đó là Nhà nước do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Pháp luật chi phối, điều tiết mọi quan hệ, hoạt động của đời sống xã hội. Mọi người tuân thủ pháp luật, sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền Việt Nam tôn trọng và tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Nhà nước pháp quyền Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Đại hội XIII của Đảng khẳng định rõ quan điểm và nhiệm vụ xây dựng Nhà nước. “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”(6). Có chiến lược xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng năm 2045.

Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội là “cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất”. Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội “trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao”. Nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Gắn kết giám sát của Quốc hội với cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Tăng hợp lý số đại biểu hoạt động chuyên trách và nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội.

Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, pháp quyền chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch. “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực”. Phát huy vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ “là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền lập pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”. Tập trung quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, năng lực dự báo. Xây dựng chính sách dựa trên luận cứ khoa học và thực tiễn trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền. Nâng cao chất lượng dịch vụ công. Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN cần phải “xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của tổ chức, cá nhân”. Nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp. Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc thù theo luật định. “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước”. Trong hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò rất quan trọng. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ chủ trương: “Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. Đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư. Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng cường đối ngoại nhân dân. Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(7).

Trong lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng đã xử lý tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Lấy nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, trong xây dựng Đảng xác định công tác cán bộ là then chốt. Công tác cán bộ không chỉ là then chốt trong xây dựng Đảng mà cả với toàn bộ hệ thống chính trị. Đại hội XIII nhấn mạnh: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Hoàn thiện thể chế quy định về công tác cán bộ, tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí, cơ chế đánh giá cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hàng động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết”(8).

Đảng đánh giá đúng cán bộ, quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng có bài bản, giáo dục và rèn luyện thường xuyên đồng thời bảo vệ, khuyến khích những cán bộ giỏi, tốt. Bác Hồ căn dặn phải đào tạo, chăm sóc cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây quý. Trung ương Đảng vừa ban hành Quy định mới về những điều đảng viên không được làm. Đó không chỉ là kỷ luật cần thiết của Đảng mà còn ngăn chặn, phòng ngừa sai phạm của đảng viên, bảo vệ cán bộ. Trung ương cũng quy định về vấn đề từ chức, miễn nhiệm với cán bộ. Đó là sự lựa chọn, sàng lọc để ngày càng có nhiều cán bộ xứng đáng với sự tin cậy của Đảng và nhân dân.

Đại hội XIII đã lưu ý về mối quan hệ giữa xây dựng và chỉnh đốn Đảng, giữa xây dựng và bảo vệ Đảng. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vệ Cương lĩnh, đường lối và lý tưởng, mục tiêu cao cả của Đảng là độc lập dân tộc và CNXH; bảo vệ những giá trị văn hóa, đạo đức cách mạng của Đảng; bảo vệ tổ chức đảng và những cán bộ ưu tú của Đảng; chú trọng bảo vệ chính trị nội bộ. Ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, là hết sức quan trọng trong chỉnh đốn và bảo vệ Đảng.

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn liền với xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị đặt ra nhiệm vụ “tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức của hệ thống chính trị, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị”. Đại hội XIII còn lưu ý việc tổng kết mô hình thí điểm ở các địa phương sáp nhập một số cơ quan Đảng, chính quyền và Mặt trận, vấn đề sắp xếp tổ chức, bớt tổ chức trung gian, tinh giản biên chế. “Hoàn thiện thể chế, bảo đảm đồng bộ, liên thông giữa pháp luật của Nhà nước với quy định của Đảng về tổ chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị”(9). Với kết quả và kinh nghiệm xây dựng, chỉnh đốn Đảng, những năm vừa qua Đảng, Nhà nước, Mặt trận, đoàn thể - hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh, lãnh đạo, tổ chức thành công sự nghiệp đổi mới, xây dựng CNXH với những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử - “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Điều đó bảo đảm cho đất nước vượt qua mọi khó khăn, thách thức, kể cả ảnh hưởng nặng nề do đại dịch COVID-19 gây ra, đưa nước ta phát triển nhanh, bền vững, phấn đấu đến năm 2025 “là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp”; đến năm 2030 “là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao” và đến năm 2045 “trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.

PGS. TS. Nguyễn Trọng Phúc

__________________________

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.5, tr.298. (2) (3) (4) (5) (9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.II, tr.218-219, 227, 229, 237, 239. (6) (7) (8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.174-175, 172, 187.

  • Tags: