Kiểm soát quyền lực nhà nước theo hiến pháp năm 2013

PLQL - Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong cơ chế quyền lực nhà nước là thống nhất là một trong những đặc trưng cơ bản của Nha nước pháp quyền Việt Nam.

PLQL - Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong cơ chế quyền lực nhà nước là thống nhất là một trong những đặc trưng cơ bản của Nha nước pháp quyền Việt Nam.  Sau 6 năm thi hành Hiến pháp (2014-2020), việc thực thi các quy định về  kiểm soát quyền lực nhà nước đã thu được những kết quả tích cực, góp phần thúc đẩy và bảo đảm pháp chế XHCN trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên do pháp luật chưa đồng bộ nên hiệu quả kiểm soát thấp. Bài viết phân tích đặc điểm, thực trạng pháp luật về kiểm soát quyền lực, từ đó đề xuất các giải pháp tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN.

Ảnh minh họa - TL 

1.  Nhà nước pháp quyền XHCN và kiểm soát quyền lực nhà nước

Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là một trong những chủ trương lớn, bao trùm, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (năm 1994) nêu nhiệm vụ: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam”. Các Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (năm 1995), Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (năm 1997) coi việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là một trong năm nguyên tắc xây dựng nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng xác định “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Chủ trương đó được thể chế hoá tại Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và được phát triển ở mức độ cao hơn khi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) bổ sung nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước vào nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước. Nguyên tắc này được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể hóa trong các đạo luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

Kiểm soát quyền lực nhà nước là một hệ thống cơ chế thực hiện bởi nhà nước và xã hội nhằm xem xét, theo dõi, đánh giá, những biện pháp mà thông qua đó có thể ngăn ngừa, loại bỏ những việc làm sai trái, những hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, nhân viên nhà nước trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, giữ cho việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích và hiệu quả. Về nguyên lý, kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguyên tắc cơ bản “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự có của Nhà nước mà là của nhân dân, được nhân dân ủy quyền, nhân dân giao quyền. Khi nhân dân ủy quyền cho Nhà nước, quyền lực nhà nước lại thường vận động theo xu hướng tự phủ định mình, trở thành đối lập với chính mình lúc ban đầu, đó là sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Do đó phải kiểm soát chặt chẽ để hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, tùy tiện từ phía cơ quan và công chức nhà nước.

2. Đặc điểm của kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam

2.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”

Kiểm soát quyền lực nhà nước xuất phát từ nguyên lý chủ quyền nhân dân. Nhân dân, với tư cách toàn thể công dân Việt Nam, là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước và nhà nước. Đó là cơ sở dẫn đến bản chất của việc tổ chức quyền lực nhà nước là việc ủy quyền từ chủ thể quyền lực. Trong cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước, Nhà nước luôn ở vị trí bị kiểm soát trong mối quan hệ với nhân dân. Qua các công trình nghiên cứu và qua thực tiễn xây dựng nhà nước cho thấy Nhà nước pháp quyền là biểu hiện của một trình độ phát triển cao của dân chủ. Đó là một nhà nước tồn tại, phát triển và vận hành trong môi trường pháp luật, coi luật là tối thượng, quyền lực nhà nước được kiểm soát chặt chẽ để tránh lạm quyền, lộng quyền, tùy tiện.

2.2. Kiểm soát quyền lực nhà nước vận hành trong thể chế chính trị nhất nguyên

Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng Nhà nước pháp quyền, ngoài các giá trị phổ biến còn bao hàm các giá trị đặc thù, tạo ra sự đặc sắc, tính riêng biệt của mỗi quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển. Mỗi quốc gia, dân tộc có cách thức xây dựng nhà nước pháp quyền theo cách riêng của mình. Từ đó mô hình và phương thức  kiểm soát quyền lực nhà nước cũng khác nhau. Ơ Việt Nam, thể chế chính trị nhất nguyên xác lập vị trí cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước và xã hội. Lịch sử cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ đã khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam - chính đảng duy nhất lãnh đạo thắng lợi cách mạng Việt Nam đã và đang xây dựng, phát huy, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Trong tấ cả các chặng đường của cách mạng, Đảng luôn dựa vào nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Đảng là lực lượng lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội, tự đặt tổ chức và hoạt động của mình trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đặc điểm này thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân. Đó cũng là điểm khác biệt của kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền XHCN so với kiểm soát quyền lực trong nhà nước tư sản.

 2.3. Kiểm soát quyền lực nhà nước vận hành trên cơ sở nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, không tạo ra sự đối trọng hay loại trừ nhau giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp

Tổ chức thực quyền lực nhà nước ở Việt Nam không dựa trên nguyên tắc tam quyền  phân lập mà dựa trên nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các nhánh quyền lực. Cơ chế ủy quyền, trao quyền từ nhân dân tạo ra sự phân công cho các chủ thể khác nhau thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Các cơ quan này phối hợp và kiểm soát lẫn nhau. Đây là điều kiện cơ bản để nhân dân giao quyền mà không bị lạm quyền, vì thông qua đó, nhân dân kiểm soát và đánh giá được hiệu lực, hiệu quả thực hiện các phạm vi quyền lực mà mình đã ủy quyền.

2.4. Kiểm soát quyền lực nhà nước có phạm vi rộng

Kiểm soát quyền lực nhà nước bao gồm các hình thức kiểm soát bên trong hệ thống và kiểm soát bên ngoài hệ thống. Với tư cách là một chỉnh thể thống nhất, quyền lực nhà nước thiết lập cơ chế kiểm soát từ bên trong đối với các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Mỗi cơ quan của từng hệ thống lại thiết lập cơ chế kiểm soát ngay trong nội bộ của mình. Bên cạnh đó, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -xã hội và các tổ chức xã hội khác, cá nhân công dân, các phương tiện thông tin đại chúng đều có những hình thức tham gia thích hợp vào kiểm soát quyền lực nhà nước

 3. Các quy định pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước

3.1. Các quy định về kiểm soát quyền lập hiến, lập pháp của Quốc hội

Theo Hiến pháp, thẩm quyền của Quốc hội giới hạn ở ba nhóm quyền hạn và nhiệm vụ: lập hiến, lập pháp; giám sát tối cao; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Quyền lập pháp được giới hạn bởi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định chặt chẽ, cụ thể thẩm quyền ban hành văn bản của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; thẩm quyền kiểm soát tính hợp hiến của quy trình và thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật thông qua hoạt động thẩm tra của Hội đồng dân tộc của Quốc hội và các ủy ban của Quốc hội đối với các dự án luật; giới hạn ủy quyền lập pháp của Quốc hội cho Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan nhà nước khác ở Trung ương và địa phương.

Việc kiểm soát quyền lập pháp còn được thực hiện thông qua việc Chủ tịch nước công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh, hoặc đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh.

Trưng cầu ý dân là hình thức kiểm soát cao nhất đối với hoạt động lập hiến, lập pháp. Luật Trưng cầu ý dân năm 2015 quy định trưng cầu ý dân được tiến hành với cách thức cử tri cả nước trực tiếp biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước như lấy ý kiến nhân dân về toàn văn Hiến pháp hoặc một số nội dung quan trọng của Hiến pháp; vấn đề đặc biệt quan trọng về chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của quốc gia; vấn đề đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước và các vấn đề đặc biệt quan trọng khác của đất nước.

3.2. Các quy định về kiểm soát quyền hành pháp  

Pháp luật quy định việc kiểm soát quyền hành pháp chủ yếu ở hai phương diện: 1) tính hợp pháp trong tổ chức và hoạt động của cơ quan hành pháp; 2) hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành pháp. Việc kiểm soát quyền hành pháp đươc thực hiện thông qua giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với hoạt động của Chính phủ và chính quyền địa phương. Đối tượng kiểm soát là tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan hành pháp, hoạt động xây dựng, hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách; các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan hành pháp ban hành theo thẩm quyền, các quyết định hành chính, các hành vi hành chính. Theo đó Quốc hội có quyền bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Thủ tưởng  Chính phủ nếu trái với  Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát hoạt động của  Chính phủ, có quyền đình chỉ hoặc theo đề nghị của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội hoặc đại biểu Quốc hội đình chỉ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng  Chính phủ nếu trái với  Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.

Hiến pháp cũng quy định việc kiểm soát của Chủ tịch nước đối với Chính phủ. Tư pháp kiểm soát hanh pháp thông qua việc xét xử của tòa án hành chính khi Tòa án này có thẩm quyền phán quyết về tính hợp pháp của các quyết định hành chính và hành vi hành chính trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước của cơ quan và công chức nhà nước. Tòa án cũng có quyền buộc cơ quan hành chính nhà nước gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức phải bồi thường.

3.3. Các quy định về kiểm soát quyền tư pháp

Việc kiểm soát quyền tư pháp cũng có những điểm đặc thù do nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm được quy định trong Hiến pháp. Quốc hội thực hiện giám sát tối cao đối với tổ chức và hoạt động của tòa án, viện kiểm sát; Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước đều có thẩm quyền giám sát hoạt động của tòa án. Viện kiểm sát nhân dân là thiết chế độc lập trong bộ máy nhà nước, có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Đồng thời kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt quá trình giải quyết vụ án hình sự, hành chính, vụ, việc dân sự và việc thi hành án.

3. 4. Các quy định về kiểm soát Hội đồng nhân dân

Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp được kiểm soát bới các cơ quan nhà nước như Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ. Theo Luật tổ chức chính quyền địa phương, kết quả bầu Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải được Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn. Theo Luật Giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, Ủy ban thường vụ Quốc hội  kiểm soát hoạt động của HĐND thông qua việc xem xét báo cáo hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, ra nghị quyết về hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; Xem xét nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; ra nghị quyết về việc xem xét nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Nội dung nghị quyết xác định nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trái hoặc không trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; trường hợp nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên thì quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nghị quyết đó. Giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng bầu cử quốc gia xem xét kết quả giám sát và giải quyết theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có liên quan giải quyết kịp thời các kiến nghị của Đoàn giám sát theo quy định của pháp luật về bầu cử.

Theo Luật tổ chức Chính phủ, Chính phủ có thẩm quyền kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; Thủ tướng Chính phủ có quyền đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ.

Theo Luật tổ chức chính quyền địa phương, HĐND cấp huyện chịu sự giám sát của HĐND cấp tỉnh. Theo đó, kết quả bầu Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp huyện phải được Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê chuẩn; kết quả bầu Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã phải được Thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện phê chuẩn. HĐND cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định biện pháp để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp; quyết định việc phân cấp cho chính quyền địa phương cấp huyện, cấp xã, cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở tỉnh; bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp huyện;Giải tán Hội đồng nhân dân cấp huyện trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân và trình Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn; phê chuẩn nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện về việc giải tán Hội đồng nhân dân cấp xã.

Hội đồng nhân dân cấp xã chịu sự kiểm soát của HĐND cấp huyện, theo đó, HĐND cấp huyện quyết định việc phân cấp cho chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở huyện; bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp xã.

3.5. Các quy định pháp luật về kiểm soát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước

Kiểm soát của xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước thực hiện thông qua hoạt động giám sát xã hội, được Hiến pháp và nhiều đạo luật khác quy định. Trước tiên phải kể đến Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở pháp lý rất quan trọng của giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước. Theo đó, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo dõi, xem xét, đánh giá, kiến nghị đối với hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện chính sách, pháp luật. Bên cạnh đó, các luật khác đều ghi nhận các quy định về giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước như Luật tổ chức chính phủ, Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, Luật tố cáo, Luật Phòng chống tham nhũng...

Bên cạnh đó, báo chí có vai trò không nhỏ trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Luật Báo chí hiện hành quy định người đứng đầu cơ quan báo chí có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trả lời vấn đề mà công dân nêu ra trên báo chí.

 3.6. Các hình thức thực hiện  kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam gồm:

      - Chế độ báo cáo của các cơ quan nhà nước các cấp.

      - Giám sát của cơ quan dân cử;

      -  Hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước.

       - Hoạt động kiểm tra, thanh tra của các cơ quan nhà nước.

     - Hoạt động chất vấn của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với cơ quan hành pháp, tư pháp; bỏ phiếu tín nhiệm (Quốc hội, HĐND thể hiện sự tín nhiệm hoặc không tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do các cơ quan này phê chuẩn để làm cơ sở cho việc miễn nhiệm hoặc phê chuẩn đề nghị miễn nhiệm người không được tín nhiệm); lấy phiếu tín nhiệm (Quốc hội, HĐND thực hiện quyền giám sát, đánh giá mức độ tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn để làm cơ sở cho việc xem xét đánh giá cán bộ)

      - Việc xét xử của tòa án nhân dân đối với các vụ án hành chính

     - Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân.

      - Thực hiện quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân và lấy  ý kiến nhân dân về dự thảo Hiến pháp.

    - Giám sát, kiểm tra của tổ chức đảng đối với đảng viên trong bộ máy nhà nước

     -  Phản biện xã hội, giám sát xã hội từ phía Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.

     - Giám sát của các phương tiện thông tin đại chúng.

      Thực tiễn kiểm soát quyền lực nhà nước cho thấy hoạt động này đã thu được những kết quả tích cực, ngăn chặn và phòng ngừa được các hiện tượng vi phạm pháp luật, lạm quyền, tùy tiện, tham nhũng từ phía các cơ quan và công chức nhà nước, góp phần lành mạnh hóa bộ máy công quyền. Các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước bảo đảm nguyên tắc tự kiểm tra và đặt dưới sự kiểm tra từ phía các cơ quan, tổ chức khác. Các yếu tố giám sát, kiểm tra từ bộ phận này đối với bộ phận khác trong hệ thống các cơ quan nhà nước tạo ra khả năng phòng ngừa các hành vi vượt quá giới hạn thẩm quyền và lạm quyền, dẫn đến việc vi phạm Hiến pháp và pháp luật, xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng đã thu được những kết quả rất quan trọng, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước, đấu tranh kiên quyết phòng, chống tham nhũng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, làm trong sạch bộ máy nhà nước, củng cố niềm tin của nhân dân vào chế độ XHCN. Giám sát của xã hội đã có những chuyển biến tích cực, huy động được sức mạnh của nhân dân, thông qua hình thức dân chủ trực tiếp để kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan và công chức nhà nước, phát hiện để các cơ quan có thẩm quyền xử lý những công chức vi phạm pháp luật và đạo đức công vụ.

Bên cạnh đó, cũng phải thấy những hạn chế trong tổ chức thực hiện việc kiểm soát quyềm lực nhà nước như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã chỉ rõ “chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng tới sự thống nhất quyền lực nhà nước và hiệu quả hoạt động của Nhà nước” [ Đảng Cộng sản Việt nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.173].  Vì vậy việc kiểm soát  còn gặp nhiều vướng mắc, đó là:

- Hệ thống pháp luật về kiểm soát quyền lực còn thiếu đồng bộ, một số quy định còn mang tính tuyên bố, cam kết, chưa chế định thành những quy phạm cụ thể để kiểm soát quyền lực một cách hiệu quả.

- Trong kiểm soát quyền lực nhà nước còn một số vấn đề cần nghiên cứu hoàn thiện như: 1) Nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp được giao cho nhiều cơ quan nên trách nhiệm trong bảo vệ Hiến pháp chưa cụ thể. Điều 119 Hiến pháp ghi nhận “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định” nhưng qua 6 năm thi hành  Hiến pháp, cơ chế này vẫn chưa hoàn thiện. Một số đạo luật sau khi có hiệu lực phát hiện có sai sót hoặc có điều khoản chưa phù hợp thì Quốc hội lại tự mình khắc phục. Trong khi đó, phương thức kiểm soát của Tòa án nhân dân đối với cơ quan lập pháp chưa được chế định. 2) Phương thức kiểm soát của cơ quan hành pháp đối với cơ quan lập pháp và cơ quan tư pháp chưa được xác lập đầy đủ, chủ yếu được thực hiện thông qua việc quản lý nhân sự và kinh phí hoạt động. 3) Các biện pháp bảo đảm thực hiện việc kiểm soát xã hội chưa phát huy hiệu quả.

  - Cơ chế kiểm soát bên trong các cơ quan nhà nước hiệu quả thấp. Vẫn còn những trường hợp xử lý chưa nghiêm đối với những tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu có vi phạm pháp luật.

   - Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương giữa các cơ quan dân cử, cơ quan quản lý nhà nước, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân chưa được cụ thể hóa. Tính công khai, minh bạch trong hoạt động và trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế.

     - Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát xét xử của Tòa án nhân dân, trong khi đó Hiến pháp quy định nguyên tắc độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử.

    - Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp nhưng lại được tổ chức theo một hệ thống dọc tương tự  như một bộ của cơ quan hành pháp, chừng nào tạo ra sự khép kín, chưa phù hợp với cách thức tổ chức của cơ quan xét xử.

       - Tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân chậm đổi mới, một số nhiệm vụ còn trùng lắp; giám sát xã hội hiệu quả không cao.         

        Từ thực tiễn nêu trên, cần thực hiện một số giải pháp tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước, đó là:

1- Xây dựng cơ chế phán quyết các vi phạm Hiến pháp trong tổ chức, họat động thực thi quyền lực của các thiết chế nhà nước. Ban hành Luật về bảo vệ Hiến pháp để cụ thể hóa khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013. Thiết chế này cần  được giao cả thẩm quyền xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản dưới luật để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

2- Hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát của Chính phủ đối với lập pháp và tư pháp; cụ thể hóa cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương.

3- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát trong nội bộ từng nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp; thực hiện nhất quán và đồng bộ chủ trương cải cách hành chính và cải cách tư pháp và cải cách pháp luật. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nước.

4-  Ban hành Luật phản biện xã hội và giám sát xã hội nhằm chế định rõ hơn vai trò và chức năng của giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước.

5- Thiết lập cơ chế phối hợp giữa kiểm tra, giám sát của Đảng, thanh tra, kiểm tra của Nhà nước với giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam./.

PGS.TS Nguyễn Tất Viễn - Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn

  • Tags: