Nâng cao chất lượng phản biện chính sách, pháp luật của các tạp chí khoa học

Hoạch định, quyết định chính sách, pháp luật là một trong hai chức năng cơ bản nhất của lãnh đạo, quản lý, điều hành các mặt đời sống kinh tế - xã hội. Trong đó, phản biện chính sách, pháp luật là một hoạt động rất quan trọng của việc hoạch định, quyết đ

Hoạch định, quyết định chính sách, pháp luật (trong đó bao gồm hoạt động tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật trong thực tiễn) là một trong hai chức năng cơ bản nhất của lãnh đạo, quản lý, điều hành các mặt đời sống kinh tế - xã hội. Trong đó, phản biện chính sách, pháp luật là một hoạt động rất quan trọng của việc hoạch định, quyết định chính sách, pháp luật.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ thăm và chúc mừng Báo Đại biểu nhân dân dịp kỷ niệm 96 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21-6-1925 - 21-6-2021) - Ảnh: TTXVN

Trong hoạch định, quyết định chính sách, pháp luật nếu không có phản biện chính sách, pháp luật thì dễ dẫn đến việc hoạch định hoặc chính sách, pháp luật khi triển khai thực hiện sẽ mang nhiều rủi ro, không hiệu quả và phù hợp trong thực tiễn. Vì vậy, phản biện chính sách, pháp luật luôn là một khâu, một công đoạn quan trọng không thể thiếu trong việc hoạch định, quyết định chính sách, pháp luật của đất nước.

1. Các phương diện trong phản biện chính sách, pháp luật

1.1. Phản biện chính sách, pháp luật mang tính quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước

Phương diện này do các tổ chức, cơ quan của Đảng và Nhà nước có thẩm quyền thực hiện như: hoạt động phản biện chính sách do các ban, các tổ chức của Đảng thực hiện; hoạt động phản biện chính sách, pháp luật do Bộ Tư pháp thực hiện với chức năng thẩm định tất cả các dự án văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan của Chính phủ soạn thảo trước khi trình Chính phủ xem xét, quyết định.

Chức năng thẩm tra các dự án văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trước khi trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến, Quốc hội thảo luận, cho ý kiến, xem xét, quyết định, ban hành; chức năng thẩm tra của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đối với tất cả những dự án văn bản quy phạm pháp luật trình Quốc hội nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật hoặc chức năng của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến đối với các dự án văn bản quy phạm pháp luật trước khi trình Quốc hội.

Hoạt động của Quốc hội thảo luận, cho ý kiến đối với các dự án văn bản quy phạm pháp luật cũng là những hoạt động mang tính phản biện chính sách, pháp luật, đồng thời mang tính quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước.v.v.

1.2. Phản biện chính sách, pháp luật mang tính khoa học, độc lập, khách quan và trung lập

Phương diện này thể hiện nhiệm vụ do các tạp chí khoa học, các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn, các nhà quản lý, các phương tiện thông tin đại chúng... thực hiện. Các hoạt động phản biện chính sách, pháp luật này không mang tính quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước nhưng có ý nghĩa rất quan trọng, không thể thiếu trong việc hoạch định, quyết định chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta.

Yêu cầu khách quan của hoạt động hoạch định chính sách, pháp luật luôn đòi hỏi việc nâng cao chất lượng phản biện chính sách, pháp luật của cả hai phương diện phản biện và phải kết hợp chặt chẽ, khoa học giữa hai phương diện phản biện mang tính quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước và phản biện mang tính khoa học, độc lập, khách quan, trung lập để góp phần nâng cao chất lượng hoạch định chính sách, pháp luật đang đặt ra ngày càng cao.

2. Nâng cao chất lượng phản biện chính sách, pháp luật của các tạp chí khoa học

Một là, nâng cao chất lượng thu thập, xử lý thông tin phục vụ cho việc phản biện chính sách, pháp luật.

Trong bối cảnh bùng nổ thông tin như hiện nay, việc thu thập và xử lý thông tin phục vụ cho công tác nghiên cứu, phản biện chính sách, pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng phản biện của các tạp chí khoa học.

Để có nguồn thông tin phong phú, đa dạng, nhiều chiều, phản ánh khách quan, trung thực trong cuộc sống chính trị, kinh tế, xã hội... đang diễn ra thì phải có cơ chế và hình thức linh hoạt để duy trì mối quan hệ thường xuyên với các cơ quan, tổ chức liên quan, các viện nghiên cứu, trường đại học, các nhà hoạch định chính sách (đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân), các chuyên gia, nhà quản lý, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn và các phương tiện thông tin đại chúng... Những thông tin đó phải là một hệ thống toàn diện, bao gồm cả thông tin quá khứ, hiện tại, dự báo tương lai, thông tin trong nước và quốc tế, thông tin phải đa chiều... bảo đảm những cơ sở dữ liệu, căn cứ cần thiết để các tạp chí tổ chức nghiên cứu, thảo luận, phản biện một cách sâu sắc, toàn diện, khoa học. Việc thu thập và xử lý thông tin có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả công tác phản biện chính sách của các tạp chí khoa học. Hiện nay, trước sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, mỗi thiết chế luôn đứng trước những thách thức của rất nhiều nguồn thông tin, ý kiến khác nhau, nếu không biết chắt lọc, xử lý tốt sẽ bị ngập trong “biển thông tin”. Các tạp chí khoa học cũng không nằm ngoài thực trạng đó. Để xử lý chính xác các luồng thông tin này đòi hỏi các tạp chí khoa học phải thường xuyên nâng cao năng lực tham mưu, nghiên cứu, phân tích, phản biện chính sách, pháp luật. Bởi vì, thông tin là nguồn tạo nên quyền lực, như Thượng nghị sĩ Mỹ Edmund Sixtus Muskie cho rằng: “Quyền lực thực sự bắt nguồn từ việc làm của bạn và bạn đang biết rõ vấn đề mà bạn đang nói tới”.

Liên quan đến vấn đề xử lý thông tin trong phản biện chính sách, pháp luật, trong cuốn sách "Quốc hội Mỹ ngày nay" có nêu: “Do những vấn đề cần xử lý vừa ở tầm chính sách, vừa có tính chất vụ việc, nguồn thông tin tối ưu cần kết hợp những yếu tố sau đây: những khía cạnh cụ thể của chính sách (cần làm những gì) những hệ quả của nó “ai sẽ được lợi, ai sẽ chịu thiệt” và viễn cảnh thực hiện chính sách (những cơ hội nào). Đối với những lĩnh vực không chuyên thì cần đến loại thông tin kết hợp được sự đánh giá tầm quan trọng của vấn đề, cả nội dung của nó, phạm vi phổ biến và mối quan hệ với những vấn đề khác”.

Hai là, những kỹ năng nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác phản biện chính sách, pháp luật.

Để nghiên cứu, tham mưu, phản biện cần phải thu thập đầy đủ, toàn diện các tài liệu có liên quan, bao gồm: các văn kiện, nghị quyết của Đảng; Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan đến dự thảo, dự án chính sách, pháp luật; các tài liệu nghiên cứu tham khảo trong nước và quốc tế; các bài viết, đề tài của các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà hoạt động thực tiễn..., kết quả điều tra xã hội học; các báo cáo sơ kết, tổng kết, báo cáo kết quả hội thảo khoa học trong nước và quốc tế; các báo cáo giám sát chuyên đề; các báo cáo tại các phiên chất vấn, giải trình tại Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội...

Cần xác định rõ phạm vi, đối tượng áp dụng và luật điều chỉnh đối với các dự thảo chính sách, pháp luật đang phản biện. Theo đó, cần làm rõ các quan hệ xã hội, quan hệ pháp luật được điều chỉnh trong dự thảo chính sách, pháp luật đó; các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân chịu sự điều chỉnh của các chính sách, pháp luật hoặc làm rõ địa vị pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong mối quan hệ mà chính sách, pháp luật điều chỉnh; các quy phạm, chế định của lĩnh vực luật nào điều chỉnh các quan hệ xã hội được quy định trong dự thảo chính sách, pháp luật đó; việc xử lý, giải quyết các xung đột pháp luật trong trường hợp có phát sinh.

Xác định rõ dự thảo, dự án chính sách, pháp luật mà các tạp chí khoa học cần nghiên cứu để phản biện đang ở giai đoạn nào của quá trình chuẩn bị hoặc quy trình lập pháp. Ví dụ, đang ở giai đoạn soạn thảo, chuẩn bị trước khi trình; giai đoạn thẩm định, thẩm tra, cho ý kiến; giai đoạn tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện; giai đoạn lấy ý kiến nhân dân, cơ quan, tổ chức hữu quan hoặc lấy ý kiến các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà hoạt động thực tiễn...

Làm rõ những vấn đề cơ bản về việc tổng kết thực hiện các quy định thuộc đối tượng mà dự thảo, dự án chính sách, pháp luật điều chỉnh như: đã tiến hành chưa, ai tiến hành, thời gian, cách thức tiến hành; những vấn đề bức xúc của xã hội cần được điều chỉnh. Qua công tác tổng kết sẽ cho thấy thực tiễn đòi hỏi đến đâu, như thế nào, phạm vi và yêu cầu ra sao; đánh giá sự phù hợp giữa quy định của dự thảo, dự án chính sách, pháp luật và yêu cầu của đời sống xã hội đang đặt ra, tính khái quát hóa, tính toàn diện, tính đổi mới và tính dự báo trong nội dung quy định của các dự thảo, dự án chính sách, pháp luật đối với thực tiễn và mục đích, yêu cầu của nhà hoạch định đang đặt ra...

Sự thống nhất của các dự thảo, dự án chính sách, pháp luật với các chính sách, pháp luật khác, nhất là với Cương lĩnh, các nghị quyết, văn kiện của Đảng, các quy định của Hiến pháp và hệ thống pháp luật. Trong đó, cần đặc biệt chú ý tới sự thống nhất về chủ trương, đường lối; thống nhất về mặt thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung của dự thảo, dự án; thống nhất về mặt nội dung, đối tượng, nguyên tắc điều chỉnh; thống nhất về mặt quy phạm; thống nhất về cách thức quy định về cùng một vấn đề; thống nhất về hình thức kỹ thuật văn bản hoặc kỹ thuật lập pháp của các dự án luật.

Việc tuân thủ các bước tiến hành của việc trình dự thảo, dự án theo quy định của Đảng hoặc theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung chính bao gồm các hoạt động cơ bản sau: hoạt động sơ kết, tổng kết thực tiễn; đánh giá tác động; lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự điều chỉnh của chính sách, pháp luật, ý kiến của các cơ quan, tổ chức có liên quan, ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn hoặc ý kiến của nhân dân...; hoạt động hội thảo khoa học trong nước và quốc tế; hoạt động tiến hành khảo sát thực tiễn ở trong nước và ở nước ngoài, hoạt động thẩm định, thẩm tra, cho ý kiến.v.v.

Về nội dung dự thảo, dự án chính sách, pháp luật cần làm rõ những vấn đề có tính nguyên tắc, phổ quát, kinh điển, có tính chất lý luận, nguyên lý; những vấn đề có tính chất đặc thù của Việt Nam trong từng thời kỳ và trong mối tương quan với tình hình thế giới và các vấn đề mang tính phổ quát, truyền thống; những vấn đề có tính đột phá cần giải quyết; những vấn đề mang tính xử lý tình huống trước mắt hoặc có lộ trình; những vấn đề mang tính chất dự báo chiến lược, đi trước, đón đầu. Mặt khác, cần có sự thống nhất phù hợp, liên kết, logic chặt chẽ giữa các vấn đề cùng được giải quyết trong dự thảo, dự án chính sách, pháp luật mà yêu cầu thực tiễn đang đặt ra.

Ba là, về cách thức tổ chức phản biện.

Công tác tổ chức phản biện chính sách, pháp luật của các tạp chí khoa học cần được tổ chức theo chiều sâu. Theo đó, cần xem xét một cách thận trọng, khách quan, trung lập về tính có căn cứ, tính khoa học, tính thời sự, tính cấp thiết, tính khả thi, tính phù hợp với thực tiễn, phù hợp với các quy luật khách quan, với ý chí và nguyện vọng của nhân dân... của các dự thảo, dự án chính sách, pháp luật; cần xem xét toàn diện về sự phù hợp của các dự thảo, dự án chính sách, pháp luật với Cương lĩnh, các nghị quyết, văn kiện của Đảng, tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo, dự án chính sách, pháp luật đó với các chính sách, hệ thống pháp luật hiện hành, bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, phù hợp trong tổng thể các chính sách, pháp luật đã được ban hành.

Đồng thời, cần xem xét đầy đủ về mọi mặt để đánh giá đúng mức sự tác động của các chính sách, pháp luật đó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đời sống của đại đa số các tầng lớp nhân dân, tính định hướng xã hội xã hội chủ nghĩa và phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Việc cân nhắc, xem xét một cách thận trọng, khách quan, trung lập đối với tất cả các ý kiến, quan điểm, chủ thuyết khác nhau trong quá trình phản biện chính sách, pháp luật của các tạp chí khoa học sẽ làm cho hoạt động phản biện ngày càng khoa học, toàn diện, sâu sắc, phong phú và chặt chẽ hơn.

Trong nội dung phản biện cần phân tích, đánh giá sự đan xen, tác động qua lại giữa các chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội có liên quan, nhất là trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cải cách hành chính, cải cách tư pháp, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội; sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực để thấy được tính phù hợp, tính thống nhất, tránh chồng chéo, mâu thuẫn của các dự thảo chính sách, pháp luật đó với tổng thể toàn diện hệ thống chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta, kể cả những quy ước của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Việc phân tích, luận giải làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở khoa học cũng như căn cứ thực tiễn về những nội dung của dự thảo chính sách, pháp luật phải luôn được đặt ra trong quá trình phản biện để thấy được mặt ưu việt và những hạn chế chưa hoàn chỉnh của những dự thảo chính sách, pháp luật đó, nhất là về vấn đề lợi ích của Đảng, Nhà nước và Nhân dân có được bảo đảm; những vấn đề về lợi ích cục bộ ngành, địa phương; thậm chí là lợi ích nhóm, lợi cá nhân có được phát hiện để loại trừ ra khỏi các dự thảo chính sách, pháp luật đó hay chưa.

Việc hoạch định chính sách, pháp luật luôn phải bảo đảm những nguyên tắc pháp chế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm kiểm soát quyền lực chặt chẽ trong quá trình hoạch định, trên cơ sở đó làm rõ được trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong quá trình hoạch định chính sách, pháp luật cũng như trong tổ chức thực thi chính sách, pháp luật. Đây là vấn đề trong quá trình phản biện chính sách, pháp luật của các tạp chí khoa học cần quán triệt bảo đảm tính định hướng, tính khoa học, tính thực tiễn, tính có căn cứ trong hoạt động phản biện. Làm cho hoạt động phản biện vừa mang tính đảng, tính nhân dân nhưng cũng có những yếu tố đột phá khoa học tạo nên thương hiệu, uy tín, bản sắc riêng của mỗi tạp chí khoa học.

TS Nguyễn Đình Quyền - Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp, đại biểu Quốc hội khóa XII, XIII

  • Tags: