TAND tối cao: Dự thảo hướng dẫn Bộ luật Hình sự về các tội liên quan đến vũ khí quân dụng

Mới đây, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng các Điều 304, 305, 306, 307, 308 của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 về các tội liên quan đến vũ khí quân dụng,

Mới đây, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng các Điều 304, 305, 306, 307, 308 của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 về các tội liên quan đến vũ khí quân dụng, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ.

Theo đó, Dự thảo hướng dẫn cụ thể về một số tình tiết là dấu hiệu định tội liên quan đến vũ khí quân dụng, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ. Cụ thể,“chế tạo vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự” quy định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật Hình sự là làm mới hoàn toàn hoặc lắp ráp từ những bộ phận của vũ khí, phương tiện và có giá trị sử dụng theo tính năng tác dụng của chúng.

Ảnh minh họa (Báo Chính phủ)

Trường hợp cơ sở sản xuất vũ khí của lực lượng vũ trang và những cơ sở khác có giấy phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp mới được sản xuất, lắp ráp vũ khí quân dụng (theo danh mục) nhưng lại sản xuất, lắp ráp vũ khí quân dụng loại khác (ngoài danh mục) cũng được coi là chế tạo trái phép phương tiện kỹ thuật quân sự.

"Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự" quy định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật Hình sự là sử dụng không có giấy phép hoặc không được phép của người hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

"Mua bán trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự" quy định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật Hình sự là các hành vi mua bán không có giấy phép hoặc không được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, không đòi hỏi phải có đầy đủ cả hai hành vi mua và bán mà chỉ cần có một trong hai hành vi đó người phạm tội cũng phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 304 của Bộ luật Hình sự.

Theo dự thảo, trường hợp người phạm tội có hành vi tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, vật liệu nổ, súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao hoặc công cụ hỗ trợ gây hậu quả làm chết người, gây tổn hại sức khoẻ cho người khác, gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các điều 304, 305, 306 của Bộ luật Hình sự với tình tiết định khung hình phạt tương ứng mà không truy cứu trách nhiệm hình sự thêm về các tội phạm quy định tại Điều 128, Điều 138, Điều 180 của Bộ luật Hình sự.

Trường hợp người sử dụng vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự có giấy phép hoặc được phép của người hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nếu là những người được quy định tại Điều 392 của Bộ luật Hình sự mà có hành vi vi phạm các quy định về sử dụng vũ khí gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm theo Điều 412 của Bộ luật Hình sự; nếu không phải là những người được quy định tại Điều 392 của Bộ luật Hình sự thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 128 của Bộ luật Hình sự mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 304 Bộ luật Hình sự.

Trường hợp người được trang bị vũ khí quân dụng đã sử dụng trái phép vũ khí quân dụng được trang bị thực hiện tội phạm hoặc người tuy không được trang bị nhưng đã dùng vũ khí quân dụng thực hiện tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 304 của Bộ luật Hình sự và tội phạm đã thực hiện theo điều luật tương ứng của Bộ luật Hình sự. Nếu tội phạm đã thực hiện mà điều luật có quy định “sử dụng vũ khí”, “dùng vũ khí” là tình tiết định khung hình phạt thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự về khoản tương ứng của điều luật.

Hiện, Tòa án nhân dân tối cao đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân về Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn trên.

  • Tags: