PLQL - Thời gian qua, trên các trang mạng xã hội đã tán phát nhiều báo cáo, bài viết…xuyên tạc tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, cho rằng Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo…Đây là những luận điệu hoàn toàn sai sự thật, bởi trên thực tế, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật, đồng thời nghiêm cấm hoạt động lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và của công dân.
Ảnh minh họa
1. Quy định của luật pháp quốc tế về tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Cũng như những quyền tự do cơ bản khác của con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được quy định cụ thể trong trong các văn bản chính trị, pháp lý quốc tế quan trọng như: Hiến chương năm 1945, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 (UDHR), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR). Khoản 3, Điều 1, Hiến chương 1945 đã ghi nhận: “Tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền và tự do cơ bản của tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo”. Điều 18, UDHR quy định: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, kể cả tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hay tôn giáo của mình bằng các hình thức như truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, dưới hình thức cá nhân hay tập thể, tại nơi công cộng hoặc nơi riêng tư”; đồng thời khẳng định: “Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu trong bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt, đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo” (Điều 2). Tuy nhiên, UDHR cũng khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là quyền tuyệt đối, mà có thể bị giới hạn: “Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ” (Khoản 2, Điều 29). ICCPR quy định: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, một cách công khai hoặc kín đáo dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng” (Khoản 1, Điều 18). ICCPR cũng khẳng định: Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ (Khoản 2, Điều 18); Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác (Khoản 3, Điều 18); nghiêm cấm mọi hành động cổ vũ hằn thù dân tộc, sắc tộc, tôn giáo dẫn đến kích động phân biệt đối xử và bạo lực (Khoản 2, Điều 20). Như vậy, ICCPR cũng đã phân định rõ ràng giữa quyền tự do tôn giáo với tự do thực hành tôn giáo, cho phép hạn chế quyền tự do thực hành tôn giáo theo pháp luật khi cần thiết nhằm bảo vệ an toàn, trật tự, sức khỏe, đạo đức xã hội hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác. Quyền lựa chọn tôn giáo là tuyệt đối, còn quyền thực hành tôn giáo không phải là tuyệt đối.
Thực tiễn ở nhiều quốc gia cho thấy, việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được đặt trong khuôn khổ pháp luật. Như ở CHLB Ðức, Hiến pháp đã quy định, tự do tôn giáo, tín ngưỡng được bảo đảm, nhưng hoạt động của một tổ chức tôn giáo có thể bị giới hạn hay bị cấm nếu như mục đích và hoạt động của tổ chức đó vi phạm quy định của Luật hình sự hay chống lại chế độ xã hội đã được quy định trong Hiến pháp. Tại Áo, theo Ðiều 28, Bộ Luật về hội đoàn, một tổ chức tôn giáo có thể bị giải tán nếu tổ chức đó vi phạm quy định trong Bộ luật Hình sự. Tại Pháp, theo Điều 1, Luật Phân ly, Nhà nước Pháp bảo đảm quyền “tự do lương tâm” và “tự do hành đạo”, quyền này chỉ bị hạn chế vì “lợi ích công cộng”. Còn ở Mỹ, theo Ðiều bổ sung số 1 của Hiến pháp Mỹ, Quốc hội nước này không được đưa ra văn bản thực hiện một quốc đạo và phân biệt đối xử như: Ưu tiên hay đối xử không công bằng với một tôn giáo..v..v…Điều đó cho thấy, nhiều quốc gia, trong đó có nước Mỹ đã đặt ra giới hạn cho tự do tôn giáo nhằm bảo đảm lợi ích chung của xã hội, nhà nước, của người dân. Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong luật pháp quốc tế cũng như pháp luật quốc gia không phải là một quyền tuyệt đối. Các quan điểm biện hộ cho “quyền tự do tôn giáo tuyệt đối” không chỉ đi ngược lại hiến pháp, pháp luật các quốc gia thành viên mà còn đi ngược lại với tinh thần của pháp luật quốc tế về tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
2. Quy định của pháp luật Việt Nam về tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Việt Nam là một nước đa dân tộc, tôn giáo. Trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn nhất quán chính sách tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Ngay từ ngày mới thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 234/SL khẳng định:“việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện. Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo phải tuân theo pháp luật của Nhà nước như mọi tổ chức khác của nhân dân. Việc bảo vệ tự do tín ngưỡng bắt buộc phải trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo gây rối loạn”. Kế thừa, phát triển quan điểm chỉ đạo của Người, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện quan điểm, chính sách, pháp luật để nhân dân được thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình trên cơ sở pháp luật. Nghị quyết 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã nhấn mạnh: “1)Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. 2) Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia”. Trên cơ sở nội luật hóa pháp luật quốc tế và thể chế các quan điểm, chủ trương của Đảng về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”(Điều 24); “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Khoản 2, Điều 14); nghiêm cấm “xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2016 cũng khẳng định: “Nghiêm cấmphân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo” vànghiêm cấm:“Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm quốc phòng an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự an toàn xã hội, môi trường; xâm hại đạo đức xã hội, xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo; giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau…”(Điều 5). Nhờ thực hiện chính sách, pháp luật đúng đắn của Đảng, Nhà nước về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, trong những năm qua, nước ta đã đạt được thành tựu to lớn trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Chưa bao giờ đời sống tôn giáo ở nước ta lại phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Các tôn giáo chung sống gắn bó, hòa hợp, đoàn kết nhau cùng tham gia đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo thống kê sơ bộ, tính đến năm 2017, cả nước có 41 tổ chức tôn giáo thuộc 14 tôn giáo khác nhau được Nhà nước công nhận và cho phép hoạt động với hơn 25 triệu tín đồ, 53 nghìn chức sắc, hơn 133 nghìn chức việc, 28 nghìn cơ sở thờ tự. Các tôn giáo đã có hệ thống đào tạo quy mô trong cả nước, hoạt động hợp tác quốc tế trên lĩnh vực tôn giáo được chú trọng, đẩy mạnh, Chính phủ đã tạo điều kiện cho các tôn giáo được mở rộng quan hệ quốc tế rộng rãi; cho phép nhiều đoàn tôn giáo quốc tế được đến thăm và làm việc tại Việt Nam và nhiều đoàn chức sắc tôn giáo trong nước đi thăm, làm việc, học tập ở nước ngoài. Việc đăng ký điểm nhóm Tin lành đã được Chính phủ hết sức quan tâm, tạo điều kiện phê duyệt; hiện nay, các tỉnh Tây Nguyên và Bình Phước có khoảng gần 500 nghìn tín đồ thuộc 31 tổ chức, hệ phái, nhóm Tin lành, trong đó có hơn 400 nghìn người đang sinh hoạt tại 240 chi hội và 1.300 điểm nhóm đã đăng ký với chính quyền địa phương. Chỉ tính từ năm 2013 đến nay, liên tục có các điểm nhóm mới được Nhà nước cấp mới đăng ký sinh hoạt tôn giáo. Đặc biệt, việc xây dựng Luật Tín ngưỡng tôn giáo là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân. Những năm qua, nước ta đã tham gia tích cực, có trách nhiệm trong Ủy ban liên Chính phủ ASEAN về quyền con người (AICHR), đồng thời thực hiện đầy đủ các cam kết và nghĩa vụ theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ II của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc, đặc biệt là thực hiện các khuyến nghị theo Cơ chế UPR chu kỳ II mà Việt Nam chấp thuận nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền con người; thể hiện là một quốc gia tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, được Liên Hợp quốc đánh giá cao là lời khẳng định mạnh mẽ nhất đối với nỗ lực, thành tựu của Việt Nam nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đó là một thực tế hiển nhiên không ai có thể phủ nhận được. Vì lẽ đó, những luận điệu xuyên tạc, bóp méo tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam của Mỹ, phương Tây và một số tổ chức quốc tế về nhân quyền, đặc biệt là gần đây Báo cáo thường niên về tự do tôn giáo quốc tế Mỹ năm 2017, Báo cáo thường niên về tự do tôn giáo thế giới 2017 của Ủy ban tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) tiếp tục đưa ra các luận điệu vu cáo Việt Nam “hạn chế tự do tôn giáo”, “kiểm soát, ngăn cấm hoạt động của các tổ chức tôn giáo không được thừa nhận”; “…tiếp tục “đàn áp” những tổ chức tôn giáo không chịu sự kiểm soát của Nhà nước; “Pháp luật Việt Nam với những điều khoản “mơ hồ cho Nhà nước kiểm soát mọi sinh hoạt tôn giáo dưới danh nghĩa gọi là bảo vệ an ninh quốc gia và duy trì đoàn kết dân tộc”; “Chính quyền “quấy rối, cản trở” sinh hoạt của tín đồ Công giáo”…chỉ là những luận điệu lạc lõng, vô giá trị mà thôi.
Nhằm thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với nước ta; những năm qua, các thế lực thù địch đã cố tình vin vào cái gọi là thuyết nhân quyền tự nhiên về quyền tự do tuyệt đối, vĩnh hằng, không bị giới hạn, không phụ thuộc các thiết chế xã hội và nhà nước để ngụy biện cho quyền tự do tuyệt đối về tôn giáo. Từ đó chúng ra sức tuyên truyền rằng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền bẩm sinh, không phụ thuộc vào văn hóa hay ý chí giai cấp, cộng đồng hay nhà nước; không một chủ thể nào, kể cả nhà nước, có thể ban phát hay tước bỏ các quyền bẩm sinh đó. Từ đó, chúng ráo riết đòi hoạt động của các tôn giáo là một “quyền tuyệt đối”, không bị hạn chế, không chịu sự quản lý của Nhà nước; từ đó làm cho nhiều người ngộ nhận rằng, tất cả các hoạt động tôn giáo đều được tự do, không chịu sự quản lý của pháp luật để cổ súy cho hành vi lợi dụng tôn giáo vi phạm pháp luật nước ta. Điển hình là vụ giáo dân ở giáo xứ Đông Yên (Hà Tĩnh) đã cố tình chống lại chủ trương di dân của Đảng, Nhà nước, phục vụ phát triển khu kinh tế Vũng Áng; hoặc vụ một số giáo dân thuộc giáo họ Yên Lạc (Nghệ An) đã phá tường rào công sở, lấn chiếm đất công trái phép, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn; vụ kích động quần chúng, tín đồ chống lại người thi hành công vụ ở Chùa Liên Trì (TP.Hồ Chí Minh) hay là vụ vận động giáo dân ở Giáo phận Vinh chống lại cơ quan chức năng, gây mất anh ninh chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An vừa qua..v.v…Các thế lực thù địch còn lợi dụng sơ hở trong thực hiện chính sách tôn giáo ở địa phương hay việc chính quyền bắt giữ, xử lý tín đồ vi phạm pháp luật để xuyên tạc Việt Nam đàn áp tôn giáo, vi phạm dân chủ, nhân quyền. Cũng như mọi hoạt động bình thường khác của xã hội, tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền được thực hiện các hoạt động tôn giáo trên cơ sở pháp luật, tức là trong khuôn khổ pháp luật. Các tôn giáo ở Việt Nam muốn phát triển được đều phải chịu sự quản lý của Nhà nước, không tôn giáo nào được phép đứng ngoài hoặc đứng trên lợi ích quốc gia, dân tộc. Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm và xử lý nghiêm minh theo pháp luật bất kỳ ai lợi dụng tôn giáo xâm phạm an ninh chính trị, trật tự xã hội, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân. Mỗi tín đồ tôn giáo cũng đồng thời là công dân Việt Nam, khi thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, cần phải thực hiện nghĩa vụ công dân trên cơ sở pháp luật.
Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật, đồng thời nghiêm cấm hoạt động lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và của công dân. Thời gian qua, các cơ quan chức năng ở một số địa phương như: Nghệ An, Hà Tĩnh, Đồng Nai…đã bắt giữ, xử lý một số chức sắc, tín đồ tôn giáo và công dân vì đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống người thi hành công vụ, cản trở hoạt động của các cơ quan nhà nước, của người dân, truyền bá mê tín dị đoan, phát triển tà đạo, tạp đạo hoặc các tôn giáo chưa được Nhà nước công nhận…ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước; không hề có chuyện chính quyền “đàn áp, bắt bớ” trái pháp luật các tín đồ, chức sắc tôn giáo như các trang mạng đã nêu. Đó là việc làm bình thường không chỉ ở Việt Nam mà ở các quốc gia khác kể cả ở Mỹ nhằm đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự công cộng. Cũng như mọi hoạt động bình thường khác, việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng phải trong khuôn khổ pháp luật. Các tôn giáo ở Việt Nam muốn phát triển được đều phải đặt dưới sự quản lý của Nhà nước, không tôn giáo nào được phép đứng ngoài hoặc đứng trên lợi ích quốc gia, dân tộc.
Nguyễn Đức Quỳnh
Văn phòng Ban Chỉ đạo nhân quyền Chính phủ