Công ước La Hay năm 1996 - Sự cần thiết đối với việc nghiên cứu khả năng gia nhập của Việt Nam

Trong khuôn khổ Hội nghị La Hay, các vấn đề liên quan đến trẻ em có yếu tố nước ngoài đặc biệt được các quốc gia thành viên dành sự quan tâm rất lớn. Các khía cạnh về bảo vệ trẻ em được đề cập đến trong Hội nghị La Hay cho đến thời điểm hiện tại bao gồm:

Tóm tắt: Trong khuôn khổ Hội nghị La Hay, các vấn đề liên quan đến trẻ em có yếu tố nước ngoài đặc biệt được các quốc gia thành viên dành sự quan tâm rất lớn. Các khía cạnh về bảo vệ trẻ em được đề cập đến trong Hội nghị La Hay cho đến thời điểm hiện tại bao gồm: nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi con nuôi quốc tế, hành vi bắt cóc trẻ em và đặc biệt là bảo vệ trẻ em. Trong đó, Công ước La Hay năm 1996 về quyền tài phán, luật áp dụng, công nhận, thi hành và hợp tác liên quan đến trách nhiệm của cha mẹ và các biện pháp bảo vệ trẻ em (Công ước La Hay năm 1996) được đánh giá là Công ước tiên tiến khi mục tiêu của Công ước nhằm bảo vệ trẻ em trong các tình huống có tính chất quốc tế và tránh các xung đột pháp luật liên quan có thể xảy ra đối với các biện pháp bảo vệ trẻ em. Do đó, việc nghiên cứu Công ước La Hay năm 1996để tiến đến khả năng gia nhập là cần thiết cho Việt Nam trong thời điểm hiện tại.

Từ khóa: Công ước La Hay năm 1996, tư pháp quốc tế, trẻ em, Việt Nam.

Abstract: Within the framework of Hague Conference, issues related to children with foreign elements are especially concerned by contracting members. Aspects of child protection covered in the Hague Conference up to present include: support obligations, international adoption, child abduction and especially children protection. Among them, the Hague Convention of 1996 is considered as an advanced Convention when its aim is to protect children in international situations and avoid possible conflicts of law related to child protection measures. Therefore, it is extremely necessary to review the Convention towards the possibility of accession of Viet Nam at present.

Abstract: Hague Conference of 1996; private international law; children; Viet Nam.

Ảnh minh họa - Internet

Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới luôn coi nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là nội dung trọng yếu trong chiến lược phát triển đất nước[1]. Trẻ em là công dân đặc biệt được gia đình cũng như xã hội quan tâm, bảo vệ, chăm sóc. Trẻ em còn non nớt về thể chất và tinh thần nên các em không thể tự mình thực hiện đầy đủ các quyền mà hầu hết phải dựa vào người lớn là cha mẹ hoặc người giám hộ. Khi thực hiện pháp luật về bảo đảm các quyền trẻ em, các quốc gia luôn đặt lên hàng đầu nguyên tắc bảo vệ những lợi ích tốt nhất dành cho trẻ em (ensure the best interests) tương ứng với từng độ tuổi phát triển về thể chất và tinh thần của trẻ. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế gia tăng, các vấn đề về bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có yếu tố nước ngoài cần sự chung tay hợp tác của các quốc gia trên thế giới thông qua các điều ước song phương hay đa phương[2].

Năm 1990, Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở khu vực châu Á, là nước thứ hai trên thế giới đã phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989[3]. Đặc biệt, kể từ ngày 10/4/2013, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế. Với tư cách thành viên, Việt Nam sẽ được tham gia quyết định chính sách, xây dựng các công ước hợp tác về các vấn đề tư pháp quốc tế và phương hướng tương lai của Hội nghị La Hay. Trong khuôn khổ Hội nghị La Hay, các vấn đề liên quan đến trẻ em có yếu tố nước ngoài đặc biệt được các quốc gia thành viên danh sự quan tâm rất lớn[4]. Các khía cạnh về bảo vệ trẻ em được đề cập đến trong Hội nghị La Hay bao gồm: các nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi con nuôi quốc tế, hành vi bắt cóc trẻ em và đặc biệt là bảo vệ trẻ em. Trong đó, Công ước La Hay năm 1996 được đánh giá[5] là công ước tiên tiến khi mục tiêu của Công ước nhằm bảo vệ trẻ em trong các tình huống có tính chất quốc tế và tránh các xung đột pháp luật liên quan có thể xảy ra đối với các biện pháp bảo vệ trẻ em.

1. Công ước La Hay năm 1996

1.1. Tổng quan về Công ước La Hay năm 1996

Vào thập niên 80 của thế kỷ 20, khi mà các vấn đề liên quan đến trẻ em có yếu tố nước ngoài đặc biệt bùng nổ, bộ ba Công ước về trẻ em của Hội nghi La Hay đã được phát triển trong khoảng thời gian 16 năm, từ năm 1980 đến năm 1996 với một mục đích cơ bản là cung cấp một cơ chế thiết thực cho phép các quốc gia thành viên chung tay trong việc hợp tác bảo vệ trẻ em[6]. Đầu tiên là Công ước năm 1980 về các khía cạnh dân sự của hành vi bắt cóc trẻ em với mong muốn bảo vệ trẻ em trên phạm vi quốc tế khỏi các ảnh hưởng xấu do bị mang đi hoặc bị giữ lại trái phép. Sau đó, vào năm 1993, Công ước về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thiết lập để điều chỉnh việc nuôi con nuôi quốc tế trong việc bảo vệ quyền và lợi ịch của trẻ em ở cả nước nhận và nước gốc. Công ước năm 1996 về quyền tài phán, luật áp dụng, công nhận, thực thi và hợp tác liên quan đến trách nhiệm của cha mẹ và các biện pháp bảo vệ trẻ em có phạm vi rộng hơn so với hai công ước trước đó khi bao trùm được một lượng lớn các phương pháp dân sự trong công tác bảo vệ trẻ em.

Tính đến tháng 9/2019, đã có tổng cộng 123 quốc gia trở thành thành viên của Công ước La Hay năm 1993[7]. Đáng chú ý, 52 quốc gia thành viên phần lớn đến từ các nước châu Âu và châu Mỹ; châu Phi có một quốc gia là Ma-rốc còn châu Á chưa có bất kỳ thành viên nào. Mỹ đã ký Công ước La Hay từ năm 2010 nhưng quá trình phê chuẩn Công ước vẫn còn đang bị bỏ ngỏ[8]. Đây cũng là một điểm đáng chú ý khi xem xét khả năng gia nhập của Việt Nam từ kinh nghiệm của các quốc gia trong và ngoài khu vực.

Công ước La Hay năm 1996 gồm 63 điều, được chia làm 7 chương[9] bao gồm: (i) Phạm vi công ước, (ii) Quyền tài phán, (iii) Luật áp dụng, (iv) Công nhận và thi hành, (v) Hợp tác, (vi) Những quy định chung, (vii) Điều khoản cuối cùng.

Các quy định được nêu trong Công ước La Hay năm 1996 có tính thống nhất cao, tránh khả năng xảy ra các quyết định gây nên xung đột. Công ước xác định trách nhiệm của cơ quan nơi trẻ em thường trú (habitual residence), trách nhiệm của quốc gia nơi trẻ em đang tạm trú phải có những biện pháp cần thiết bảo vệ trẻ em.

Điều 3 Công ước La Hay năm 1996 tuy không nêu rõ định nghĩa về các biện pháp bảo vệ nhưng quy định các vấn đề cụ thể mà biện pháp bảo vệ có thể được áp dụng nằm trong phạm vi Công ước. Quan trọng hơn, những điều khoản về hợp tác của Công ước tạo ra một khung pháp lý cơ bản cho việc trao đổi thông tin và phối hợp giữa các cơ quan hành chính nhà nước tại các quốc gia khác nhau.

Công ước La Hay năm 1996 không ràng buộc các quốc gia thành viên phải sửa đổi luật pháp quốc nội trong cho phù hợp với Công ước, nhưng trên thực tế, các quốc gia thành viên đều có những bổ sung, hoàn thiện pháp luật trong nước để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện Công ước.

Công ước La Hay năm 1996 đã xây dựng một thiết chế để giải quyết các vấn đề về quyền nuôi dưỡng có thể phát sinh khi cha mẹ ly thân và sống ở các quốc gia khác nhau, tránh việc cơ quan tài phán ở nhiều quốc gia có thẩm quyền để quyết định vụ việc.

Những điều khoản của Chương công nhận và thực thi của Công ước được thiết kế nhằm mục đích tránh việc tranh chấp hay khởi kiện lại việc cấp dưỡng và liên lạc, đồng thời đảm bảo rằng, các quyết định tại nơi trẻ có thường trú được hưởng ưu tiên.

Những điều khoản của Chương hợp tác khuyến khích việc trao đổi thông tin một cách cần thiết và có thể trở thành một kênh hữu hiệu cho việc tìm kiếm các giải pháp, chẳng hạn như hòa giải…

2. Mối quan hệ của Công ước La Hay năm 1996  với các điều ước quốc tế liên quan

Công ước La Hay năm 1996 được nhận xét là có nhiều điểm tương đồng với Quy chế Brussell II (Quy chế). Cả hai công cụ đều chứa các quy tắc về quyền tài phán, công nhận và thực thi các quyết định về trách nhiệm của cha mẹ. Nếu một vụ việc xảy ra thì Quy chế sẽ chiếm ưu thế hơn Công ước trong quan hệ giữa các quốc gia thành viên về các vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của Quy chế. Do đó, Quy chế chiếm ưu thế trong các vấn đề về thẩm quyền, công nhận và thực thi. Mặt khác, Công ước La Hay năm 1996 được áp dụng trong quan hệ giữa các quốc gia thành viên về các vấn đề luật áp dụng, vì vấn đề này không được quy định trong Quy chế[10].

So với Công ước La Hay năm 1980 về các khía cạnh dân sự của hành vi bắt cóc trẻ em, Công ước La Hay năm 1996 bổ sung, củng cố bằng cách nhấn mạnh và làm rõ vai trò của các cơ quan tại nơi mà trẻ thường trú với việc quyết định bất kỳ biện pháp nào cần thiết để bảo vệ trẻ em lâu dài[11]. Các thủ tục về hợp tác trong Công ước La Hay năm 1996 đóng vai trò quan trọng trong các trường hợp trẻ chưa thành niên không có người đi kèm đi qua biên giới của các quốc gia khác. Dù cho trẻ thành niên không có người đi kèm là người tị nạn, xin tị nạn hay người bỏ trốn ở tuổi thành niên, Công ước hỗ trợ bằng cách hợp tác trong việc xác định vị trí của đứa trẻ, bằng cách xác định quốc gia nào có thẩm quyền để thưc hiện bất kỳ biện pháp bảo vệ cần thiết. Công ước La Hay năm 1996 dựa trên quan điểm cho rằng các điều khoản về bảo về trẻ em nên tạo thành một thể thống nhất. Điều này cũng giải thích lý do phạm vi Công ước khá rộng khi Công ước khắc phục sự không chắc chắn (uncertainty) phát sinh nếu các quy tắc riêng áp dụng cho các loại biện pháp bảo vệ khác nhau. Đồng thời, Công ước La Hay năm 1996 tính đến sự đa dạng của các thể chế pháp lý và hệ thống bảo vệ trẻ em tồn tại trên khắp thế giới.  

3. Một số thuật ngữ đáng chú ý trong Công ước La Hay năm 1996

-Habitual Residence (Nơi thường trú)

Công ước La Hay năm 1996 không đưa ra định nghĩa cụ thể về nơi thường trú. Bản chất của các quy định và sự sắp xếp được mô tả trong Công ước phụ thuộc vào nơi một đứa trẻ "thường trú". Nguyên tắc chung là quốc gia mà đứa trẻ thường trú là quốc gia có quyền tài phán đối với đứa trẻ và có quyền thực hiện và quyết định các thủ tục tố tụng để bảo vệ quyền lợi của đứa trẻ đó. Thiết lập nơi ở theo thói quen của trẻ thường là một giai đoạn quan trọng trong việc đánh giá tình hình của trẻ.

Nơi thường trú của một đứa trẻ không đương nhiên là của người chăm sóc chính của chúng, cũng không liên quan đến quốc tịch của đứa trẻ. Nếu một đứa trẻ bị chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác mà không có sự đồng ý của người hoặc cơ quan có quyền nuôi dưỡng, thì nơi thường trú của trẻ sẽ không thay đổi. Tuy nhiên, nếu một đứa trẻ đã sống ở một quốc gia trong một năm và định cư ở đó, nơi thường trú của trẻ sẽ là quốc gia đó với điều kiện không có cá nhân hoặc cơ quan nào đưa ra yêu cầu hợp lệ để trả lại đứa trẻ. Nếu một đứa trẻ bị chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác mà không có sự đồng ý của người hoặc cơ quan có quyền nuôi dưỡng, thì nơi thường trú của trẻ sẽ không thay đổi.

Trong trường hợp một đứa trẻ là người tị nạn hoặc rời khỏi đất nước của mình, thì quốc gia mà đứa trẻ đó hiện diện thực tế sẽ có quyền tài phán. Nếu không rõ trẻ thường trú ở đâu, thì cần tư vấn pháp lý.

-Parental Responsibility (Trách nhiệm của cha mẹ)

Trách nhiệm của cha mẹ được quy định tại khoản 2 Điều 1 Công ước La Hay năm 1996, bao gồm: thẩm quyền của cha mẹ hoặc bất kỳ mối quan hệ tương tự nào về thẩm quyền xác định quyền; quyền hạn và trách nhiệm của cha mẹ, người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp khác liên quan đến đứa trẻ. Khi trách nhiệm của cha mẹ đã được thiết lập ở một quốc gia, người nắm giữ nó sẽ tiếp tục giữ trách nhiệm của cha mẹ sau khi chuyển sang một quốc gia khác. Bất kỳ sự bổ sung trách nhiệm của cha mẹ chỉ có thể được thực hiện theo luật của quốc gia mà đứa trẻ thường trú tại thời điểm đó. Quyền giám hộ là một dạng trách nhiệm đặc biệt của cha mẹ, thay thế trách nhiệm của cha mẹ hoặc những người khác có trách nhiệm.

Sổ tay của Hội nghị La Hay về Hướng dẫn thực thi Công ước xác định khái niệm “trách nhiệm của cha mẹ” có thể được hiểu tùy theo pháp luật của mỗi quốc gia thành viên. Pháp luật Việt Nam quy định khá đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và người giám hộ, người đại diện theo pháp luật đối với nhân thân cũng như tài sản của trẻ em.

-Urgent cases (Trường hợp khẩn cấp)

Công ước La Hay năm 1996 không đưa ra định nghĩa thế nào là “trường hợp khẩn cấp”. Do đó, vấn đề được đặt ra đối với các cơ quan tư pháp/hành chính tại nước ký kết chính là việc xác định xem một tình huống cụ thể có phải là “khẩn cấp” hay không.

Căn cứ vào Báo cáo Giải thích Công ước La Hay năm 1996, tình huống khẩn cấp có thể được xác định trong trường hợp biện pháp bảo vệ được áp dụng theo quy định từ Điều 5 đến Điều 10[12] khi trẻ có thể phải chịu những tổn hại không thể khắc phục được hoặc trong trường hợp lợi ích của trẻ có thể bị xâm phạm[13]. Chính vì vậy, cơ quan có thẩm quyền tại các quốc gia thành viên cần tiến hành xem xét liệu đứa trẻ có khả năng phải chịu những tổn hại không thể khắc phục được hay không hoặc các lợi ích của chúng bị tổn hại nếu một biện pháp bảo vệ không được thực hiện[14].

4. Sự cần thiết Việt Nam gia nhập Công ước La Hay năm 1996  

Trong suốt 30 năm kể từ khi gia nhập Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, Việt Nam đã nỗ lực trong công tác xây dựng pháp luật hài hòa với các quy định của Công ước. Luật Trẻ em năm 2016 (Luật Trẻ em), về cơ bản phù hợp với mục tiêu của Công ước cũng như các Điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên. Luật Trẻ em dành một chương riêng (chương VI từ Điều 79 đến Điều 102) xác định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức kinh tế, cơ sở giáo dục và trên hết là trách nhiệm của gia đình, mà đặc biệt là cha mẹ. Gia đình có vai trò, trách nhiệm quan trọng trong việc thực hiện quyền trẻ em (nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, phát triển, hình thành nhân cách của trẻ em). Vì vậy, Luật Trẻ em quy định cụ thể trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em sống với cha, mẹ (Điều 96), khai sinh cho trẻ em (Điều 97), bảo đảm chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em (Điều 98), giáo dục trẻ em, bảo đảm quyền học tập, phát triển năng khiếu, vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch của trẻ em (Điều 99); bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em (Điều 100); bảo đảm quyền dân sự (Điều 101).

Tuy nhiên, các biện pháp bảo vệ được đề cập trong pháp luật hiện hành mới chỉ giới hạn phạm vi trong nước mà chưa tính đến các vụ việc có yếu tố nước ngoài với tính chất phức tạp. Có thể kể đến những vụ ly hôn có yếu tố nước ngoài, việc cha/mẹ đưa con đến một quốc gia khác mà không có sự xin phép của người còn lại hay trẻ em là đối tượng của những vụ buôn bán người qua biên giới... Việc xác định nơi thường trú của trẻ em trong nhiều trường hợp cũng gặp nhiều khó khăn khi có những mâu thuẫn, xung đột trong pháp luật quốc gia. Chính vì vậy, khi tính đến khả năng gia nhập Công ước La Hay năm 1996, các luật liên quan đến việc bảo vệ lợi ich tốt nhất cho trẻ cũng như trách nhiệm của cha mẹ bao gồm: Luật Tương trợ tư pháp, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật Cư trú… cũng cần được xem xét sửa đổi, bổ sung…

Việt Nam đã là thành viên của Công ước năm 1993 và trong thời gian sắp tới sẽ hoàn tất thủ tục gia nhập Công ước năm 1980. Nhìn một cách tổng quan, việc gia nhập Công ước La Hay sẽ đem lại nhiều lợi ích cho Việt Nam, không chỉ tăng cường hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ trẻ em mà còn có khả năng giải được bài toán lớn trong tư pháp quốc tế, đó là xác định được những xung đột của pháp luật bao gồm: quyền tài phán, luật áp dụng, công nhận và thực thi. Việc tiếp cận những vấn đề này từ góc độ dân sự cũng còn khá mới mẻ tại Việt Nam đồng nghĩa với việc sẽ có những khác biệt hay khoảng trống so với các quy định của Công ước.

Một vấn đề khác được đặt ra liên quan đến bảo vệ trẻ em và trách nhiệm của cha mẹ, đó là khi tính đến khả năng gia nhập sẽ có những xung đột trong pháp luật nội dung và pháp luật hình thức của Việt Nam và một số quốc gia thành viên Công ước La Hay năm 1996. Bởi lẽ, khi một thuật ngữ được dùng ở hai hệ thống pháp luật khác nhau thì cũng có thể được hiểu theo hai nghĩa khác nhau. Ví dụ, Công ước La Hay năm 1996 không định nghĩa về habitual residence (nơi thường trú) mà việc quy định này sẽ được dành cho các quốc gia thành viên. Điều này có thể dẫn tới những cách hiểu không thống nhất giữa các quốc gia áp dụng luật quốc tịch (lex nationalis) và quốc gia áp dụng luật cư trú (lex domicili). 

Sau khi Việt Nam trở thành thành viên của Hội nghị La Hay, ngày 16/8/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1440/QĐ-TTg về Kế hoạch thực hiện quyền và nghĩa vụ thành viên Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế của Việt Nam[15]. Mục 4 của phần nhiệm vụ và giải pháp của bản Kế hoạch với tên gọi là “Đẩy mạnh nghiên cứu, từng bước tham gia các Công ước của Hội nghị La Hay” đã ghi rõ:

“Nhiệm vụ này nhằm xây dựng một lộ trình nghiên cứu gia nhập các Công ước quan trọng của Hội nghị cần thiết đối với Việt Nam theo thứ tự ưu tiên phù hợp nhất với nhu cầu, điều kiện của Việt Nam.

Để thực hiện nhiệm vụ này cần tiến hành rà soát và nghiên cứu sơ bộ toàn bộ các Công ước của Hội nghị La Hay để xác định những Công ước mà Việt Nam cần ưu tiên nghiên cứu gia nhập, lộ trình và cơ quan chủ trì việc nghiên cứu, gia nhập cũng như thực thi sau này.”

Trong bối cảnh Việt Nam càng tích cực trong công cuộc hội nhập quốc tế, các mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài càng phát triển với tần suất ngày càng gia tăng về số lượng cũng như sự phức tạp thì việc bảo vệ trẻ em cũng như đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em cần sự phối hợp chặt chẽ, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tư pháp quốc tế. Nhiều vấn đề quốc tế cần giải quyết ở vấn đề đa phương với nỗ lực cao từ các quốc gia và Công ước chính là văn bản pháp lý quốc tế quan trọng cụ thể hóa mối quan tâm này. Việc tham gia thiết chế đa phương trong tư pháp quốc tế là một biện pháp có tính chất lâu dài, bền vững, hữu hiệu trong việc xử lý các vấn đề pháp lý có thể phát sinh./. 

ThS Lê Xuân Tùng 

Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp

[1] Xem tại: https://laodong.vn/thoi-su/cham-soc-bao-ve-tre-em-la-mot-nhiem-vu-chien-luoc-trong-tam-de-phat-trien-dat-nuoc-623607.ldo, truy cập ngày 12/09/2020.

[2] Xem http://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/phap-luat-va-nguyen-tac-quoc-te-ve-quyen-tre-em, truy cập ngày 15/10/2020.

[3] Unicef Việt Nam, Kỷ niệm 30 năm Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em, xem https://www.unicef.org/vietnam/vi/nh%E1%BB%AFng-c%C3%A2u-chuy%E1%BB%87n/k%E1%BB%B7-ni%E1%BB%87m-30-n%C4%83m-c%C3%B4ng-%C6%B0%E1%BB%9Bc-li%C3%AAn-h%E1%BB%A3p-qu%E1%BB%91c-v%E1%BB%81-quy%E1%BB%81n-tr%E1%BA%BB-em.

[4] Elisabeth J. Ryan, For the Best Interests of the Children: Why the Hague Convention of Intercountry Adoption Needs to Go Farther, as Evidenced by Implementation in Romania and the United States, Boston College International and Comparative Law Review.

[5] Henry Setright QC & Marcus Scott-Manderson QC, 4 PAPER BUILDINGS, 1996 Hague Convention Seminar, https://www.4pb.com/wp-content/uploads/2012/06/Hague_Seminar_Final_Draft.pdf, truy cập ngày 31/10 /2020.

[6] Xem tại:https://www.familylawweek.co.uk/site.aspx?i=ed105739, truy cập ngày 12/08/2020.

[7] Xem tại: https://www.hcch.net/en/instruments/conventions/status-table/?cid=70, truy cập lần cuối ngày 14/10/2020.

[8] Xem tại: Linda Silberman. "The 1996 Hague Convention on the Protection of Children: Should the United States Join?" Family Law Quarterly 34, no. 2 (2000): 239-70, truy cập lần cuối ngày 24/05/2021, http://www.jstor.org/stable/25740289 và https://www.hcch.net/en/instruments/conventions/status-table/?cid=70, truy cập lần cuối ngày 24/05/2021.

[9] Xem https://www.hcch.net/en/instruments/conventions/full-text/?cid=70, truy cập lần cuối vào 15/09/2020.

[10] Practice Guide for the application of the new Brussels II Regulation, xem file:///C:/Users/MyPC/Downloads/guide_new_brussels_ii_EU_en.pdf, truy cập ngày 15/09/2020.

[11] Seventh Meeting of the Special Commission on the Practical Operation of the 1980 Child Abduction Convention and the 1996 Child Protection Convention, xem https://www.hcch.net/en/publications-and-tudies/details4/?pid=6545&dtid=57, truy cập ngày 10/11/2020. 

[12] Quy định về những cơ sở chung

[13] Báo cáo giải thích Công ước, tr.68.

[14] Giai đoạn này diễn ra trước khi các cơ quan có thẩm quyền theo Điều 5 đến Điều 10 Công ước La Hay năm 1996 có thể thực hiện các biện pháp bảo vệ cần thiết. Sổ tay Công ước đưa ra các ví dụ sau: i) Trẻ đang ở bên ngoài quốc gia nơi thường trú của mình và cần phải điều trị y tế khẩn cấp ; (ii) Tài sản thuộc về trẻ em cần được bán; hoặc (iii) Đã xảy ra việc đưa đi hoặc giữ trẻ một cách bất hợp pháp và, trong bối cảnh tố tụng được tiến hành theo Công ước La Hay năm 1980 về bắt cóc trẻ em, các biện pháp cần được thực hiện khẩn cấp để đảm bảo đưa trẻ trở lại quốc gia thành viên một cách an toàn. 

[15] Toàn văn quyết định, xem http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=2&mode=detail&document_id=169326.

  • Tags: