Đấu tranh chống hoạt động lợi dụng vấn đề “xã hội dân sự” tác động chuyển hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay

Hoạt động lợi dụng vấn đề “xã hội dân sự” là một trong những phương thức, thủ đoạn mà các thế lực thù địch đang tiến hành với âm mưu thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, “cách mạng màu” đối với cách mạng Việt Nam.

Trong những năm gần đây, các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “xã hội dân sự”, dân tộc, tôn giáo và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác để xuyên tạc, bóp méo tình hình; cổ súy cho lối sống hưởng thụ, thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa; cấu kết với các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị hoạt động ráo riết, chống phá cách mạng ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn. Ý đồ thâm hiểm, xuyên suốt của các thế lực thù địch là hình thành các phong trào ly khai, các tổ chức đối lập dưới hình thức các hội, nhóm, các công đoàn, ủy ban... tiến đến tạo ra các cuộc “cách mạng màu” tác động chuyển hóa chính trị ở Việt Nam. Thực tế trên, thế giới đã minh chứng điều đó thông qua các cuộc “cách mạng màu” xảy ra ở một số nước Trung Á - SNG, “Cách mạng cam” ở Ucraina, “Mùa xuân Ảrập” ở Bắc Phi và Trung Đông..., được coi là những điển hình của các cuộc lật đổ chế độ chính trị hiện thời bằng bất bạo động do các nhóm xã hội dân sự tiến hành dưới bàn tay hậu thuẫn của các nước phương Tây.

1. Nhận diện vấn đề “xã hội dân sự”

Hiện nay, “xã hội dân sự” là đối tượng được quan tâm đặc biệt trong các nghiên cứu của nhiều học giả, nhà khoa học, nhà quản lý và hoạch định chính sách ở cấp độ toàn cầu. Điều đó cho thấy tính thời sự và sức “nóng” mà xã hội dân sự mang lại cho chính trị quốc tế nói chung, nền chính trị khu vực và của mỗi quốc gia nói riêng, nhất là những xung đột, bất ổn, bất định của đời sống quốc tế và những vấn đề liên quan đến xã hội dân sự trong những năm gần đây. Vậy, có thể nhận diện “xã hội dân sự” như thế nào?

Thuật ngữ “xã hội dân sự” (Civil Society) có nguồn gốc từ phương Tây. Để hiểu về thực thể xã hội dân sự, chúng ta tiếp cận thông qua nghiên cứu của các học giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.

Theo quan điểm của C.Mác, xã hội dân sự chỉ xuất hiện trong chế độ tư bản chủ nghĩa, từ khi giai cấp tư sản nắm quyền thống trị: “Thuật ngữ “xã hội công dân” xuất hiện trong thế kỷ XVIII khi những quan hệ sở hữu thoát khỏi thể cộng đồng  [Gemeinwesen] cổ đại và trung cổ. Xã hội tư sản [burgerliche Gesellschaft] với tính cách là xã hội tư sản chỉ phát triển cùng với giai cấp tư sản; tuy nhiên, tổ chức xã hội trực tiếp sinh ra từ sản xuất và giao tiếp và trong mọi thời đại đều cấu thành cơ sở của nhà nước và của kiến trúc thượng tầng tư tưởng, vẫn luôn luôn được gọi bằng danh từ đó” . C.Mác cho rằng, xã hội dân sự là một phương tiện khác để tăng thêm lợi ích của giai cấp thống trị trong chủ nghĩa tư bản, bản chất của xã hội dân sự vẫn là chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, C.Mác cũng nhận thấy ở xã hội dân sự vấn đề cốt lõi chính là việc huy động sự tham gia của quần chúng, các hội, đoàn thể quần chúng đối với tiến trình lịch sử xã hội.

Trên cơ sở quan điểm của C.Mác, cùng với sự tổng kết các quan điểm về xã hội dân sự, có thể đi đến một sự khái quát chung như sau:

Xã hội dân sự là tập hợp các mối quan hệ (và thiết chế tương ứng đi kèm) giữa các cá nhân trong khuôn khổ của một quốc gia - dân tộc (Nation - State), được xác định với những đặc tính cơ bản như: tính tự nguyện, tính phi lợi nhuận và tính tự quản.

Xã hội dân sự được xem là lĩnh vực nằm cạnh và độc lập với thị trường và nhà nước. Trong khái niệm này nổi lên những dấu hiệu bản chất của thuật ngữ xã hội dân sự như sau:

Thứ nhất, xã hội dân sự là “những hoạt động tập thể tự nguyện”. Những hoạt động này mang tính tập thể, tức là thuộc  lĩnh vực hoạt động công cộng - phân biệt với những lĩnh vực riêng tư, cá nhân. Chúng mang tính tự nguyện, dựa trên những nguyên tắc đạo đức được chia sẻ và không bị ép buộc, không bị dẫn dắt bởi ý chí chính trị hay bởi mục tiêu lợi nhuận.

Thứ hai, xã hội dân sự phân biệt với thị trường bởi tính chất phi lợi nhuận trong các hoạt động của nó. Các dịch vụ hay sản phẩm mà những tổ chức thuộc xã hội dân sự cung ứng là miễn phí và mang tính công ích.

Thứ ba, xã hội dân sự tồn tại dưới dạng những tổ chức và thiết chế mang tính tự quản. Những tổ chức, nhóm, nghiệp đoàn... của xã hội dân sự hoạt động trên cơ sở luật pháp, nhưng lại không đi theo ý chí của nhà nước và không bị dẫn dắt bởi thị trường. Chúng có những mục tiêu và tôn chỉ riêng của mình là phản ánh và đáp ứng các nhu cầu đa dạng của các cá nhân - những người đã thiết kế và tạo dựng chúng.

Thứ tư, do các cá nhân hợp thành xã hội dân sự là những công dân sống trong lãnh thổ do quốc gia quản lý nên xét trong quan hệ đối ngoại, xã hội dân sự thể hiện ra với tư cách là một dân tộc (trong quan hệ với những dân tộc khác). Còn trong quan hệ đối nội, xã hội dân sự là “cử tri” của quyền lực nhà nước. Nói cách khác, ý chí và hành vi đồng thuận của người dân là cơ sở để hình thành nên quyền lực công cộng.

Thứ năm, với tư cách là một lĩnh vực nằm cạnh, độc lập với thị trường và nhà nước, xã hội dân sự phải hứng chịu sự tác động đến từ hai khu vực kế cận này. Điều đó có nghĩa là, khi nhà nước hay thị trường có sự biến chuyển thì tất yếu cũng sẽ kéo theo sự biến đổi của xã hội dân sự. Điều này đúng đối với bất kỳ yếu tố nào trong “mối quan hệ tay ba” nói trên.

Từ các dấu hiệu bản chất của khái niệm xã hội dân sự trên cho thấy, xã hội dân sự là một “thực thể” có tính hai mặt (tích cực và tiêu cực). Bên cạnh những giá trị nhân văn, đạo đức có thể mang lại để góp phần phát triển xã hội nếu xã hội dân sự được quản lý và phát huy tốt các chức năng của nó, thì xã hội dân sự là một “thực thể” được tạo dựng bởi các mối quan hệ tự nguyện, tự quản, phi lợi nhuận... nên tính tổ chức khá lỏng lẻo, dễ tổn thương, dễ mất kiểm soát và rơi vào hỗn loạn, dễ bị lợi dụng vì mục đích chính trị.

Đối với nước ta hiện nay, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, ngày càng có nhiều tổ chức xã hội được thành lập và hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có một số tổ chức là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Các tổ chức xã hội đã có nhiều đóng góp trong việc phát huy dân chủ, xây dựng cơ chế, chính sách, pháp luật và thực hiện giám sát, phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; chủ động tham gia cung ứng dịch vụ công, hỗ trợ cho hoạt động của Chính phủ trong việc phân phối và nâng cao chất lượng dịch vụ, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo..., góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Tuy nhiên, với thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, các thế lực phản động quốc tế và thù địch luôn muốn tạo ra các lực lượng đối lập, chống đối Đảng Cộng sản ngay trong lòng xã hội Việt Nam. Cần cảnh giác với xu hướng này, vì các tổ chức xã hội dân sự kiểu này nhằm mục đích tạo ra sự đối lập và thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước ta.

2. Bộ mặt thật của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề “xã hội dân sự” ở nước ta hiện nay

Trong bối cảnh hiện nay, “xã hội dân sự” được nhìn nhận là một vấn đề chính trị, xã hội hết sức phức tạp và nhạy cảm. Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu cũng như biến động chính trị trên thế giới thời gian qua như “Cách mạng màu” ở các nước không gian hậu xôviết hay “Mùa xuân Ảrập” ở Bắc Phi và Trung Đông cho thấy Mỹ, phương Tây và các lực lượng đối lập đã triệt để lợi dụng vấn đề “xã hội dân sự” để tập hợp lực lượng lật đổ chính quyền đương nhiệm.

Đối với Việt Nam, các thế lực thù địch cũng đã và đang lợi dụng vấn đề “xã hội dân sự” để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với âm mưu thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam.

Để thực hiện âm mưu tác động gây chuyển hóa chính trị ở Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động đang ráo riết tiến hành một số hoạt động sau:

Một là, tuyệt đối hóa tính “độc lập” tương đối của xã hội dân sự với Nhà nước. Các thế lực phản động bằng nhiều chiêu bài khác nhau để đẩy mạnh tuyên truyền về cái gọi là ranh giới giữa nhà nước với xã hội dân sự, giữa “công” và “tư”, giữa “chính trị” và “phi chính trị”. Theo đó, xã hội dân sự được đề cao, tuyệt đối hóa, được mô tả như là mô hình xã hội nhân đạo, tốt đẹp, dân chủ; ngược lại, nhà nước là cơ quan bảo thủ, chuyên chế và cưỡng bức.

Thực chất, trên đây là các luận điệu tuyên truyền nhằm làm cho vai trò tổ chức, quản lý xã hội của Nhà nước bị suy yếu, qua đó không ngừng cổ súy cho xã hội dân sự, tạo môi trường xã hội cho sự ra đời của các tổ chức chính trị đối lập với Đảng núp dưới danh nghĩa là xã hội dân sự.

Hai là, lợi dụng xã hội dân sự để đòi hỏi về dân chủ hóa. Các thế lực phản động có thể lợi dụng vấn đề xã hội dân sự để đòi Nhà nước phải bảo đảm tự do vô giới hạn trong các lĩnh vực. Họ coi hình thành xã hội dân sự độc lập về chính trị là điều kiện, tiền đề cho việc bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công dân và các quyền con người.

Lợi dụng các quyền con người, đặc biệt là cổ súy thái quá tự do cá nhân, thông qua quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do biểu tình... Hơn nữa, các thế lực phản động tuyên truyền, khuyến khích mỗi công dân có quyền bày tỏ chính kiến không giới hạn và liên kết với những người khác hình thành các tổ chức “độc lập” tham gia vào đời sống cộng đồng, thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.

Ba là, lợi dụng viện trợ, quan hệ kinh tế, thương mại, ngoại giao để gây sức ép về dân chủ, nhân quyền, đòi thành lập các hội, các tổ chức độc lập về chính trị; tác động và gây sức ép đòi thay đổi đường lối, chính sách, hệ thống pháp luật và lĩnh vực tư pháp.

Bằng các hình thức tài trợ khác nhau cho một số tổ chức xã hội dân sự, các thế lực phản động nhằm mục đích chính trị là hậu thuẫn cho các thế lực hoạt động chống phá cách mạng nước ta; lợi dụng vấn đề tự do lập hội để tập hợp lực lượng đối trọng với Đảng, Nhà nước ta, gây sức ép và đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập nhằm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.

Bốn là, thông qua môi trường xã hội dân sự, các lực lượng phản động lôi kéo quần chúng vào hoạt động dưới danh nghĩa vì mục tiêu chung, “thúc đẩy sự tham gia của người dân vào công việc của chính quyền”, dùng chiêu bài phản biện chính sách, phản biện xã hội, đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, bảo vệ môi trường..., từ đó tạo ra những tâm lý phản kháng, tinh thần đấu tranh của quần chúng chống lại các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, gây mất ổn định chính trị, xã hội.

Thời gian qua, một số đối tượng xấu đã lợi dụng các tổ chức xã hội dân sự để phục vụ cho các mưu đồ chính trị, tiến hành thành lập các tổ chức “xã hội dân sự chính trị” để thực hiện các hoạt động chống Đảng, Nhà nước. Trong đó, có thể kể đến những cái gọi là: “Hội Cựu tù nhân lương tâm”, “Hội Phụ nữ nhân quyền”, “Hội Anh em dân chủ”, “Diễn đàn xã hội dân sự”, “Khối 8406”, “Bauxite Việt Nam”, “Hiệp hội dân oan Việt Nam”, “Văn Đoàn độc lập”, “Kiến nghị 72”, “Tổ chức Việt Tân”(!)... Các tổ chức này đều được lập ra bởi các đối tượng có quan điểm chính trị đối lập, những người “bất đồng chính kiến”. Chúng thường lợi dụng các vấn đề “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, vì sự tiến bộ của xã hội để tuyên truyền xuyên tạc các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội; vu cáo Đảng, Nhà nước, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản (xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013), đòi đa nguyên, đa đảng, gây mất lòng tin của quần chúng nhân dân.

Từ các hoạt động này, các lực lượng phản động nhằm làm suy yếu và vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đưa xã hội rơi vào tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ, tạo điều kiện cho sự ra đời của các tổ chức chính trị đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam.

Âm mưu của các thế lực phản động quốc tế là hòng tạo ra các lực lượng đối lập, chống đối Đảng Cộng sản Việt Nam ngay trong lòng xã hội Việt Nam, nên chúng tác động cho ra đời những tổ chức xã hội dân sự kiểu phương Tây để từ “phản biện” hướng đến “phản đối” và cuối cùng thành tổ chức “phản động, chống đối” Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Thực chất là các thế lực phản động phương Tây đang muốn sử dụng các tổ chức xã hội dân sự như một phương thức để “diễn biến hòa bình” tiến tới “diễn biến không hòa bình” (cách mạng màu) lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam .

Rõ ràng không phải ngẫu nhiên mà một số tổ chức phi chính phủ nước ngoài thường “quan tâm” nhiều đến các địa bàn trọng điểm về an ninh chính trị - xã hội hoặc đang xảy ra các sự kiện “nhạy cảm” liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo. Trong bối cảnh đó, một mặt phải nâng cao cảnh giác, phát hiện kịp thời và kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu lợi dụng vấn đề xã hội dân sự của các thế lực thù địch, mặt khác cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với các tổ chức xã hội

3.Ngăn chặn hoạt động lợi dụng vấn đề xã hội dân sự tác động chuyển hóa chính trị ở nước ta hiện nay

Nhận thức được tính chất nguy hiểm của hoạt động lợi dụng vấn đề xã hội dân sự, việc tổ chức công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động này có ý nghĩa quan trọng trong chống “diễn biến hòa bình”, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong bối cảnh hiện nay.

Trong thời gian tới, để ngăn chặn các hoạt động lợi dụng vấn đề xã hội dân sự gây “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chính trị ở nước ta cần làm tốt những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, nhận thức đúng đắn về xã hội dân sự và đấu tranh chống hoạt động lợi dụng xã hội dân sự tác động gây chuyển hóa chính trị ở Việt Nam.

Cần nhận thức rằng, xã hội dân sự là một vấn đề chính trị, xã hội phức tạp, đòi hỏi phải đi sâu nghiên cứu, nhận diện, làm rõ để xác định chủ trương, cách ứng xử phù hợp. Tuyệt đối tránh khuynh hướng đơn giản hóa nhận thức về xã hội dân sự như: quá đề cao xã hội dân sự hoặc đồng nhất xã hội dân sự với việc thực hiện dân chủ hóa. Cần nhận rõ âm mưu, hoạt động của các lực lượng phản động lợi dụng vấn đề xã hội dân sự để tác động chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam. Mặt khác, cũng tránh tư tưởng coi xã hội dân sự là tiêu cực, chống đối, “đối lập” hoàn toàn với Nhà nước và “tẩy chay”, không nghiên cứu, tìm hiểu kỹ về vấn đề này.

Thực tế, bên cạnh đa số các tổ chức xã hội có vai trò tích cực, vẫn có một số tổ chức, trong những trường hợp nhất định  có xu hướng chính trị hóa, can thiệp sâu, thậm chí lũng đoạn các hoạt động chính trị không chỉ trong nước mà cả ngoài nước, vượt quá phạm vi, giới hạn cho phép, trái với tôn chỉ, mục đích đã được xác định khi thành lập.

Ở nước ta hiện nay, một số tổ chức xã hội hoạt động còn hình thức, kém hiệu quả, chưa đáp ứng được nguyện vọng và lợi ích của đoàn viên, hội viên, có tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự tài trợ của Nhà nước; có xu hướng “hành chính hóa” về mặt tổ chức và hoạt động, do đó khả năng thu hút, tập hợp hội viên bị hạn chế. Việc tham gia cung ứng dịch vụ công trong một số trường hợp chưa được triển khai đúng với tôn chỉ và mục đích đã đăng ký, thậm chí có trường hợp chạy theo lợi nhuận đơn thuần, hoặc lợi dụng danh nghĩa tổ chức phi lợi nhuận để trốn thuế, gây tổn hại đối với lợi ích xã hội.

Vì vậy, cần nhận thức khách quan, toàn diện về vai trò, tác dụng cũng như những hạn chế, thách thức của các tổ chức xã hội đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội; từ đó bổ sung, hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức, hoạt động và quản lý các tổ chức xã hội phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước.

Đấu tranh chống hoạt động lợi dụng vấn đề xã hội dân sự của các thế lực thù địch thực chất là ngăn chặn mưu đồ thực hiện “chuyển hóa dân chủ”, tạo tiền đề dẫn đến các kịch bản “diễn biến hòa bình”, “cách mạng màu”, bạo loạn lật đổ ở nước ta.

Thứ hai, tăng cường công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đối với hoạt động của các hội và tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam.

Đối với nước ta, thể chế quản lý tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội phải phù hợp và đáp ứng được cơ chế vận hành của thể chế chính trị: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.

Thể chế quản lý các tổ chức xã hội kết hợp chặt chẽ giữa tự quản của các tổ chức xã hội với quản lý của Nhà nước đối với tổ chức xã hội; phát huy tính tự quản của tổ chức xã hội trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước nhằm khắc phục tình trạng hành chính hóa, nhà nước hóa, đồng thời hạn chế tính tự phát hoặc lợi dụng danh nghĩa tổ chức xã hội để hoạt động kinh doanh kiếm lời, thậm chí vì mục đích chính trị, gây mất ổn định chính trị - xã hội.   

Thứ ba, làm tốt công tác nắm tình hình, chủ động phát hiện âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề xã hội dân sự xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Để chủ động trong phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động lợi dụng vấn đề xã hội dân sự xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, công tác nắm tình hình cần tập trung vào các trọng điểm sau: Hoạt động của các tổ chức phi chính phủ (NGO), các tổ chức tư nhân của Mỹ, phương Tây có liên quan đến dân chủ, nhân quyền, nhất là chú ý làm rõ hệ thống tổ chức đã tác động trực tiếp đến các cuộc “cách mạng màu” ở Đông Âu và Trung Á, đến cách mạng “Mùa xuân Ảrập” tại Bắc Phi và Trung Đông, phát hiện kịp thời âm mưu, ý đồ của các tổ chức này triển khai tại Việt Nam; các chương trình, dự án của các NGO, các tổ chức tư nhân nước ngoài triển khai tại Việt Nam, nhất là các chương trình liên quan đến cải cách hành chính, pháp luật, dân chủ, nhân quyền.

Thứ tư, kiên quyết xử lý các tổ chức hội, đoàn thể, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoạt động vi phạm pháp luật, kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành các chủ trương, chính sách, xây dựng hệ thống văn bản pháp luật phù hợp, điều chỉnh hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội theo đúng định hướng phát triển của đất nước.

Đối với các tổ chức hội, đoàn thể có biểu hiện hoạt động phức tạp, có dấu hiệu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cần tăng cường đối thoại, tiếp xúc, cảm hóa chính trị, không để các thế lực thù địch lôi kéo nhằm thực hiện ý đồ chống đối từ bên trong. Kịp thời phát hiện, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn âm mưu, hoạt động của các đối tượng phản động, chống đối lợi dụng các tổ chức đoàn thể xã hội để chuyển hóa thành tổ chức chính trị đối lập.

 Bên cạnh đó, cùng với việc tiếp tục thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tổ chức và hoạt động của các hội, đoàn thể, cần tiếp tục nghiên cứu, đề xuất đổi mới công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này sao cho phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa Việt Nam. Tăng cường công tác quản lý các tổ chức hội, không để các thế lực thù địch lợi dụng tác động, chuyển hóa chính trị ở nước ta.

Ths. Tô Ngọc Đường

Khoa nghiệp vụ cơ bản, Trường cao đẳng CSND II 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.52
  2. Xem Đại tá, TS. Đỗ Văn Hoan: “Phòng, chống hoạt động lợi dụng “xã hội dân sự” để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Chiến lược, số 8-2015, tr.45-48
  3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 149
  4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021
  5. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-tieu-diem-10-06//2018/499787/nhan-dien-va-dau-tranh-voi-am-muu%2C-hoat-dong loidung-van-de-%E2%80%9Cxa-hoi-dan-su%E2%80%9D-de-chong-pha-dang%2C-nha-nuoc%2C-hong-chuyen-hoa-che-do-chinh-tri-o-viet nam.aspx
...
  • Tags: