Đấu tranh chống những quan điểm sai trái phủ nhận tính khoa học và cách mạng của lý luận hình thái kinh tế-xã hội trong giảng dạy triết học Mác-Lênin

Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội là phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.

Ảnh minh họa - TL

Tóm tắt: Tư tưởng cách mạng, tiến bộ và các luận cứ khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin được thể hiện trong hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội, trong nội dung học thuyết giá trị thặng dư, về đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, về vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội khác, đặc biệt trong lý luận hình thái kinh tế -xã hội (KT-XH). Đối với những người nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị ở Việt Nam, việc khẳng định tính khoa học - thực tiễn của các nguyên lý trong học thuyết Mác-Lênin về hình thái KT-XH là công việc thường xuyên, đòi hỏi thái độ nghiên cứu khoa học nghiêm túc, đánh giá, thẩm định mang tính phê phán chứ không thể chỉ là “tầm chương, trích cú”.

Từ khóa:  lý luận hình thái kinh tế- xã hội, triết học Mác-Lênin, tính khoa học và cách mạng, Giảng dạy triết học, chủ nghĩa Mác-Lênin

1/ Lý luận hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin là gì?

Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội là phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.

Hình thái KT-XH chỉ ra kết cấu xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định bao gồm ba yếu tố cơ bản: Lực lượng sản xuất (LLSX); quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng) và kiến trúc thượng tầng (KTTT) của xã hội. Đây là sự trừu tượng hoá, khái quát hoá những mặt, những yếu tố chung nhất, phổ biến nhất của mọi xã hội ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào. Các yếu tố cơ bản nói trên vừa thống nhất, vừa có vị trí, vai trò khác nhau trong sự tồn tại và phát triển của mỗi hình thái KT-XH. Các yếu tố của hình thái KT-XH có mối quan hệ biện chứng hình thành sự vận động tổng hợp của hai quy luật cơ bản, quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX và quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT của XH. Từ đó tạo thành cơ chế vận hành của các hình thái KT-XH trong lịch sử.

Ngày nay, việc khẳng định giá trị bền vững lý luận về hình thái KT-XH phản ánh tính kiên định trong quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam: Đổi mới dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng vào phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam.

2/ Giá trị khoa học và cách mạng của Lý luận hình thái kinh tế - xã hội

Lý luận hình thái KT-XH là lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác xây dựng lên, có vị trí quan trọng. Lý luận đó đã được khoa học thừa nhận và là phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu lĩnh vực xã hội. Nhờ có lý luận hình thái KT-XH, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, C.Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển XH, bản chất của từng chế độ XH, nghiên cứu về cấu trúc cơ bản của XH, cho phép phân tích đời sống hết sức phức tạp của XH để chỉ ra các mối quan hệ biện chứng giữa các lĩnh vực cơ bản của nó; chỉ ra quy luật vận động và phát triển của nó như một quá trình lịch sử - tự nhiên. Lý luận đó giúp chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn và khoa học sự vận hành của xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định cũng như tiến trình vận động lịch sử nói chung của xã hội loài người, cụ thể:

Lý luận hình thái KT-XH đã chỉ ra: Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội và vai trò quyết định của người lao động đối với sự phát triển của LLSX.

Khi không sản xuất ra của cải vật chất, thì bất cứ một XH nào cũng đều không thể tồn tại được. Nhờ công cụ lao động, người ta tác động đến tự nhiên và tự cung cấp những thứ cần dùng. Sự tiến bộ của XH phụ thuộc vào bước tiến hóa của sự sản xuất vật chất. Lịch sử của xã hội chỉ bắt đầu từ khi người ta đã cho ra và sử dụng được công cụ sản xuất. Trình độ LLSX càng cao, thì người ta càng chế ngự được tự nhiên. LLSX tiến bộ, thì mặt thứ hai của sản xuất vật chất, tức QHSX cũng biến đổi, chế độ kinh tế và chế độ xã hội cũng biến đổi theo. Việc QHSX mới xuất hiện trên cơ sở LLSX và hoàn toàn thích hợp với LLSX đó, là điều kiện chủ yếu và quyết định đối với đà phát triển liên tục và mạnh mẽ của LLSX. Sự kế tục của các hình thái KT-XH trong lịch sử có nghĩa là những QHSX tiến bộ hơn thay thế cho những QHSX nhất định nào đó. Sự kế tục đó chung quy vẫn là hậu quả tất yếu của quy luật phát triển của LLSX trong XH. Việc thiết lập những QHSX mới thường thường thực hiện bằng phương pháp cách mạng lật đổ những quan hệ cũ.

Vì vậy, công lao của Chủ nghĩa mác-Lênin là đã chú ý trước tiên đến những quy luật kinh tế của sinh hoạt XH, đến những điều kiện khách quan trong đó con người giữ vị trí trung tâm, là chủ thể của lịch sử, người lao động là nhân tố đóng vai trò quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất, cơ sở của mọi hoạt động lịch sử của con người.

Lý luận hình thái KT-XH đã chỉ ra: Xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau.

Những lý luận cho rằng lịch sử xã hội là kết quả của hoạt động hỗn độn và tùy ý của cá nhân, là kết quả của ý chí và nguyện vọng của con người đã bị Ccủ nghĩa duy vật lịch sử đã vĩnh viễn đánh đổ. Sự phát triển của XH, cũng như sự phát triển của tự nhiên, không phải do nguyện vọng chủ quan quyết định, mà là do những quy luật khách quan quyết định, những quy luật này không phải do ý chí, cũng không do ý thức của người ta mà có. Người ta có thể phát hiện ra những quy luật khách quan, có thể nghiên cứu, nhận thức nó, chú trọng đến nó trong hành động của mình, sử dụng nó để có lợi cho mình, hạn chế tác dụng của một số quy luật này và mở đường hoạt động tự do cho một số quy luật khác, song người ta không thể thay đổi hoặc xóa bỏ được các quy luật đó. Lý luận hình thái KT-XH cho thấy để nhận thức, lý giải đúng đời sống XH, phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống XH và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng. V.I.Lênin viết: “Xã hội là một cơ thể sống đang phát triển không ngừng, một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái XH đó” [1].

Lý luận hình thái KT-XH đã chỉ ra: Sự phát triển của các hình thái KT-XH là một quá trình lịch sử - tự nhiên.

Quan điểm của C. Mác: “Tôi coi sự phát triển của các hình thái KT-XH là một quá trình lịch sử - tự nhiên”[2] . Tức diễn ra theo các quy luật khách quan, chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Xã hội loài người vận động, phát triển liên tục từ thấp đến cao không phụ thuộc và ý muốn chủ quan của con người, mà do các quy luật nội tại của đời sống xã hội quy định, trong đó trước hết và cơ bản là quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Như vậy, nghiên cứu Lý luận hình thái KT-XH đã tiếp tục khẳng định chân giá trị của những nguyên lý Mác-Lênin về các hình thái KT-XH trong lịch sử, đặc biệt là hình thái KT-XH cộng sản chủ nghĩa với hai giai đoạn phát triển là hình thái KT-XH khác hẳn về bản chất so với các hình thái đã có trước đó. Khẳng định tính khoa học, cách mạng và thực tiễn của sự ra đời tất yếu, bản chất ưu việt của xã hội XHCN.

Hiện nay, do lo sợ sự lớn mạnh bởi tư tưởng cách mạng của C. Mác, sợ bị mất đi lợi ích từ sự độc quyền áp bức, bóc lột giai cấp công nhân, nhân dân lao động, các dân tộc trên thế giới nên giai cấp tư sản tìm mọi cách phủ nhận lý luận hình thái KT-XH dưới mọi hình thức.

3/ Những quan điểm sai trái phủ nhận tính khoa học và tính cách mạng của lý luận về hình thái kinh tế - xã hội

Thứ nhất, xu hướng của các học giả tư sản phương Tây luôn đối lập với C.Mác về lập trường tư tưởng.

Họ luôn bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và tìm mọi cách để luận chứng cho sự “tồn tại hợp lý” của chế độ TBCN thì các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác lại khẳng định loài người nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Do đó, họ cho rằng học thuyết hình thái KT-XH chỉ thấy được khía cạnh “phá hủy” của CNTB, mà không thấy được khả năng “sáng tạo” của nó trong vòng chuyển động không ngừng. Một số học giả của xu hướng này cho rằng, C.Mác và V.I.Lênin đã không lường trước được khả năng thích nghi, tiến hóa của CNTB, chẳng hạn trong việc giải quyết mâu thuẫn giữa chủ và thợ, giữa tư bản và lao động. Mặt khác, họ cho rằng, khi học thuyết hình thái KT-XH chỉ ra con đường sai lầm để thoát khỏi CNTB, chẳng những không dẫn đến chủ nghĩa xã hội, mà còn đưa tới một chế độ “toàn trị độc đoán”, hay nói như học giả tân tự do hàng đầu Friedrich F.Hayek là dẫn tới “chủ nghĩa nô lệ”.

Thứ hai, xu hướng của những kẻ cơ hội nhân danh bảo vệ chủ nghĩa Mác nhưng thực chất là xuyên tạc, hạ bệ chủ nghĩa Mác.

Chủ nghĩa Mác nói chung và học thuyết hình thái KT-XH nói riêng còn luôn bị những kẻ cơ hội công kích, tấn công. Sau sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, các phần tử cơ hội thuộc các đảng cộng sản đã mạo danh là những người mácxít - mặc dù lên tiếng ủng hộ học thuyết hình thái KT-XH nhưng thực chất là vin vào sự thoái trào của hệ thống các nước XHCN để đòi xét lại chủ nghĩa Mác. Theo họ, CNXH hiện thực ở Liên Xô hơn 70 năm qua và các nước Đông Âu từ sau Chiến tranh thế giới thứ II, cũng như ở Trung Quốc và Việt Nam trước cải cách đổi mới là hoàn toàn xa lạ với các nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Họ gọi đó là các “phiên bản khác nhau của chủ nghĩa toàn trị của Stalin”. Có người theo xu hướng này còn cố gắng tìm mọi cách để đối lập quan điểm của V.I.Lênin với quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về CNXH và thời kỳ quá độ. Họ cho rằng mô hình xây dựng CNXH ở một nước riêng lẻ có trình độ phát triển lạc hậu bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa mà V.I.Lênin đặt nền móng ở nước Nga là một biểu hiện của sự: chệnh hướng khỏi các nguyên lý mácxít cơ bản. Chính sự xuyên tạc này đã ảnh hưởng không nhỏ đến lập trường, quan điểm của những người theo chủ nghĩa Mác.

Thứ ba, xu hướng của những người theo thuyết kỹ trị hiện đại muốn phủ nhận những luận điểm cơ bản của lý luận về hình thái kinh tế - xã hội trong thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

 Trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, khi mà KH-CN đang ngày càng có vai trò to lớn đối với sự phát triển của XH loài người, các nhà kỹ trị mới lại đang tìm cách vin vào những thành tựu của KH-CN hiện đại để phủ nhận những quan điểm được coi là sống còn của học thuyết hình thái KT-XH. Một trong những quan điểm đó là việc C.Mác đã khẳng định con người là chủ thể của lịch sử, người lao động là nhân tố đóng vai trò quyết định sự phát triển của LLSX. Tuy nhiên, các học giả của thuyết kỹ trị hiện đại cho rằng, ngày nay, với sự xuất hiện ngày càng nhiều “robot thông minh”, “trí tuệ nhân tạo” khiến người máy đang dần thay thế con người. Điều đó khiến người lao động vốn từ chỗ là chủ thể của quá trình sản xuất đang bị gạt ra bên lề quá trình sản xuất ấy, trở thành nhân tố đóng vai trò thứ yếu. Biểu hiện của sự thay đổi này là thay vì cần đến nhiều nhân công để lao động, sản xuất thì ngày càng có nhiều doanh nghiệp chỉ cần ít nhân công. Thay vì trả lương cho nhân công, các doanh nghiệp đầu tư vào máy móc, công nghệ. Do đó, các nhà kỹ trị hiện đại cho rằng đã đến lúc cần xem xét lại quan điểm của C.Mác về vai trò, vị trí trung tâm, có ý nghĩa quyết định của người lao động trong sản xuất vật chất.

Do đó, có thể nhận thấy, ngay từ khi chủ nghĩa Mác ra đời đã trở thành mục tiêu tấn công của các học giả tư sản, các phần tử cơ hội, phản động. Đặc biệt, sau sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, các thế lực thù địch đã tìm mọi cách để phủ nhận học thuyết hình thái KT-XH, nhất là quan điểm về tương lai của xã hội loài người là CNXH, chủ nghĩa cộng sản. Ngày nay, trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, các học giả tư sản, nhất là những người theo thuyết kỹ trị hiện đại lại đang tìm mọi cách phủ nhận học thuyết hình thái KT-XH. Điều đó đặt ra thử thách lớn đối với những mácxít chân chính là cần phải luôn đấu tranh phản bác chống lại những quan điểm sai trái, thù địch và kiên trì, kiên định và sáng tạo với chủ nghĩa Mác và để bảo vệ chủ nghĩa Mác.

Những quan điểm đó tựu trung là phủ nhận giá trị của lý luận với lập luận rằng: Lý luận đã lạc hậu, chỉ thích hợp đối với “bước chuyển từ thời trung cổ sang thời cận đại”. Phải thay thế nó bằng một lý luận khác, chính vì vậy việc khẳng định những giá trị khoa học của lý luận hình thái KT-XH đang là một đòi hỏi cấp thiết, nghiêm túc nhằm cũng cố niềm tin khoa học về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn

4/ Trong giảng dạy để bảo vệ Lý luận hình thái kinh - tế xã hội chính là tiếp tục khẳng định tính khoa học, tính cách mạng của lý luận và cần bổ sung, phát triển của lý luận về hình thái kinh tế - xã hội

Lý luận về hình thái KT-XH mặc dù có nhiều giá trị bền vững cho đến ngày nay nhưng không phải không có những điểm cần được bổ sung, phát triển. V.I.Lênin - Người đã không ngừng bảo vệ, phát triển học thuyết Mác đã nhiều lần nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần bổ sung, phát triển học thuyết hình thái KT-XH trên một số điểm cơ bản như sau:

- Thực chất sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản ngày nay nhìn từ góc độ lý luận hình thái KT-XH?

Nói học thuyết Mác là học thuyết phát triển bởi nó mang bản chất khoa học,

cách mạng triệt để nhất. Ngày nay, mặc dù thế giới có nhiều đổi thay, bản thân các nước tư bản cũng có sự điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh mới, nhưng bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vẫn không hề thay đổi. Những hạn chế, khuyết tật vốn có của chủ nghĩa tư bản, như ô nhiễm môi trường, xung đột, khủng bố, bạo lực và bất ổn XH, khủng hoảng kinh tế, bất bình đẳng XH,... vẫn diễn ra hết sức gay gắt và phức tạp ở các nước tư bản. Thậm chí, học giả Allen W. Wood còn chỉ ra rằng: “Phần lớn mọi người đều cho rằng Mỹ là quốc gia giàu có nhất trên thế giới, nhưng đó cũng là quốc gia bất bình đẳng nhất trên thế giới: 400 người giàu nhất nước Mỹ sở hữu khối lượng tài sản cao hơn tổng số tài sản của 150 triệu người nghèo nhất. Những người giàu nhất chiếm 1% dân số nhưng lại sở hữu hơn 1/3 tổng lượng tài sản của toàn XH, vượt quá tổng lượng tài sản của những người có thu nhập thấp nhất nước Mỹ - đối tượng chiếm tới 95% dân số”([3]). Với những mâu thuẫn mang tính bản chất đó xuất phát từ chế độ sở dữu tư nhân về tư liệu sản xuất.

          Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, làm sáng tỏ nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phù hợp với thực tiễn của nước ta và xu thế phát triển của thế giới. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định, nhìn lại 35 năm đổi mới và 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, đặc biệt trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) (Cương lĩnh khẳng định “Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình) đã tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

- Sự xuyên tạc chống phá lý luận hình thái KT-XH của chủ nghĩa Mác?

Với chủ nghĩa duy vật lịch sử, mà cốt lõi là lý luận về hình thái KT-XH, C.Mác đã chỉ ra quy luật phát triển của XH loài người thực chất là sự thay thế các hình thái KT-XH, thông qua cách mạng xã hội. Sự thay thế đó là một quá trình lâu dài và được quyết định bởi những mâu thuẫn nội tại của các hình thái KT-XH ấy. Mỗi hình thái KT-XH được xem như là một cơ thể sống, một cơ cấu xã hội hoàn chỉnh, luôn luôn biến động bởi sự tác động tổng hợp của LLSX và QHSX, của CSHT và KTTT. Trong sự tác động đó, con người luôn giữ vai trò trung tâm và quan trọng nhất, quyết định sự phát triển của các hình thái KT-XH.

Trong khi khẳng định tính tất yếu của hình thái KT-XH tư bản chủ nghĩa, C.Mác cũng chứng minh tính tất yếu của hình thái KT-XH mà hình thái KT-XH tư bản chủ nghĩa nhất thiết phải chuyển sang, đó là hình thái KT-XH cộng sản chủ nghĩa, trong đó giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa. Sự vận động, phát triển, thay thế các hình thái KT-XH từ thấp đến cao là quy luật tất yếu của lịch sử xã hội loài người, chứ không phải của riêng một dân tộc hay quốc gia nào.

Đối chiếu với lịch sử phát triển xã hội loài người cũng như thực tiễn phát triển xã hội của nhân loại ngày nay, có thể thấy, sự tổng kết nói trên của C. Mác là hoàn toàn đúng đắn, vượt xa thời đại mà ông sống về tư duy cũng như tầm nhìn. Quan điểm duy vật lịch sử cùng với lý luận về hình thái KT-XH của chủ nghĩa Mác là nền tảng trong việc hình thành nhận thức về xã hội tư bản chủ nghĩa hiện đại và xã hội xã hội chủ nghĩa với đầy đủ những đặc điểm về bản chất, mâu thuẫn, xu hướng vận động, phát triển cũng như con đường đưa chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trở thành hiện thực.

- Con người là vị trí trung tâm, là chủ thể lịch sử và người lao động đóng vai trò quyết định sự phát triển của LLSX.

- Trước đây, khi nói đến LLSX, C.Mác nhấn mạnh nhiều đến khả năng của con người trong việc chinh phục giới tự nhiên. C.Mác viết: LLSX chẳng qua là năng lực thực tiễn của con người trong việc chinh phục giới tự nhiên. Vì lẽ đó, để thể hiện khả năng của mình, con người đã sử dụng những phương tiện, kỹ thuật hiện đại để chinh phục giới tự nhiên ngày càng nhiều hơn. Thực tế cho thấy, trong quá trình sản xuất vật chất, con người không chỉ chinh phục tự nhiên mà còn phải thích nghi với giới tự nhiên nên khi đề cập đến phạm trù LLSX mà chỉ nhấn mạnh đến hoạt động chinh phục, xem nhẹ hoạt động thích nghi là chưa đầy đủ. Do mối quan hệ giữa con người với tự nhiên ngày càng xung khắc, biểu hiện qua việc thiên tai xuất hiện ngày càng nhiều, mức độ nghiêm trọng ngày càng gia tăng, nên con người cần từng bước điều chỉnh lại hoạt động sản xuất vật chất, chuyển hướng sang phát triển LLSX một cách có chọn lọc, tránh làm tổn hại đến tự nhiên. Thay vì nói phát triển LLSX như trước kia, cần phải phát triển LLSX chọn lọc vì LLSX là khái niệm thể hiện không chỉ hoạt động đấu tranh mà còn thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa con người và giới tự nhiên”.

Quan điểm của học thuyết kỹ trị hiện đại khi đề cao vai trò quyết định của khoa học - công nghệ (KH-CN) đối với SXVC hiện nay, bản thân C.Mác chưa bao giờ phủ nhận vai trò của khoa học bởi chính Ph.Ăngghen đã từng khẳng định: “Đối với Mác, khoa học là một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng”.

Không thể phủ nhận được ngày nay những thành tựu của KH-CN hiện đại với sự ra đời của người máy đã thay thế không chỉ những công việc nặng nhọc, những hoạt động cơ bắp mà còn có thể thay thế cho cả những hoạt động tinh vi, phức tạp của con người. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là KH-CN hiện đại trở thành yếu tố quyết định sự phát triển của LLSX, từ đó người lao động trở thành yếu tố thứ yếu, đứng bên ngoài quá trình sản xuất. Về thực chất, KH-CN trước hết là sản phẩm của quá trình nhận thức, sản phẩm của sự phát triển trí tuệ của con người. Có thể nói, do yêu cầu của sản xuất mà con người đã sáng tạo và quyết định khuynh hướng, tốc độ phát triển của KH-CN, đồng thời quyết định việc sử dụng KH-CN vào sản xuất theo mục đích của mình. Thực tế cho thấy, kỹ thuật, công nghệ hiện đại với tư cách là phần vật chất trong các yếu tố cấu thành của LLSX dù năng động và cách mạng đến mấy cũng chỉ là sản phẩm do bàn tay và khối óc của con người làm ra và chịu sự điều khiển, giám sát của con người. Do đó, trí tuệ nhân tạo dù được mệnh danh là tiên tiến đến đâu cũng chỉ là sản phẩm của con người, hoạt động của nó phụ thuộc vào những chương trình mà con người đã lập ra, đã cài đặt vào máy tính điện tử và người máy công nghiệp. Vì vậy, KH-CN là của con người, gắn liền với con người, phụ thuộc vào con người và phải thông qua hoạt động của con người mới có thể được vật hóa vào quá trình sản xuất. Nếu không xuất phát từ con người, được tiến hành bởi con người và không hướng về mục đích phục vụ con người, không có quá trình sản xuất nào có đủ lý do để tồn tại và phát triển. Do vậy, trong bất cứ thời đại nào, kể cả thời đại của KH-CN hiện đại, người lao động vẫn là nhân tố đóng vai trò quyết định sự phát triển của LLSX. Vì thế, quan điểm của C.Mác về vai trò quyết định của người lao động đối với sự phát triển của LLSX vẫn còn đúng đắn.

Tóm lại, để bảo vệ học thuyết hình thái KT-XH, một mặt chúng ta cần phải tỉnh táo nhận diện những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch; mặt khác chúng ta cần phải mạnh dạn đề xuất bổ sung, phát triển những quan điểm của học thuyết này cho phù hợp với thực tiễn. Việc bổ sung, phát triển đó không phải là “xét lại” chủ nghĩa Mác; cũng không phải là làm lu mờ chân giá trị của chủ nghĩa Mác mà là làm cho những nội dung, quan điểm của học thuyết Mác được có thêm sức sống mới, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của giai đoạn hiện nay. Việc luận giải vấn đề này, giúp mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, giảng viên giảng dạy lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin nói riêng cần kiên định, tìm hiểu rõ, nắm sâu sắc, tuyên truyền đúng bản chất của chủ nghĩa Mác-Lênin, tính đúng đắn khoa học, giá trị thời đại của học thuyết này cho đội ngũ cán bộ cơ sở để góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng./.

Ths. Lê Thị Thảo

Trường Chính trị Hoàng Văn Thụ tỉnh Lạng Sơn

[1] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t.1, tr.198.

[2] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1993, t.23; tr.21.

[3] Allyn Fives và Keith Breen (Chủ biên): Triết học và sự tham gia chính trị: Nhìn từ lĩnh vực công, Nxb. Palgrave Macmillan, 2016

...
  • Tags: