Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng, đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân được Đảng ta quán triệt trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới. Trong bối cảnh mới, đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo, có phương hướng, biện pháp thiết thực, hiệu quả hơn nữa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Ảnh Tư liệu
1. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng, đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân
Thứ nhất, nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Thấm nhuần sâu sắc lý luận Mác - Lênin về vai trò của nhân dân, trong tư tưởng chỉ đạo và thực tiễn hành động, Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò làm chủ của nhân dân, luôn luôn tin vào khả năng, sức mạnh và quyền lực của dân, còn dân thì còn nước, được lòng dân là được tất cả. Người khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội là do Đảng lãnh đạo và do nhân dân xây dựng lấy”(1). CNXH là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân.
Trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã thể hiện sự nhất quán vì mục tiêu con người được giải phóng triệt để, ấm no, hạnh phúc, sáng tạo và phát triển hoàn thiện bản thân. Cho nên, Người chủ trương phải xây dựng nhà nước kiểu mới, nhà nước bảo đảm dân là chủ và dân làm chủ; “bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân”. Người yêu cầu mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đều hướng đến nhân dân, chăm lo lợi ích của dân, “việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì ta phải hết sức tránh”. Mục tiêu trong cách mạng giải phóng dân tộc hay trong thời kỳ xây dựng xã hội mới cũng đều vì dân, “đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân”, “làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ thì khá giàu và người khá giàu thì giàu thêm”.
Hướng đến con người, tôn trọng từng cá nhân con người, nhưng phải dựa trên nguyên tắc đặt lợi ích của cộng đồng, của dân tộc lên trên hết và trước hết, đi ngược lại với lợi ích chung của xã hội thì sẽ trở thành chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ và điều đó tất yếu dẫn đến cản trở, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Chống lại chủ nghĩa cá nhân nhưng không được “giày xéo” lên lợi ích cá nhân, mà phải tôn trọng lợi ích chính đáng và phát triển năng lực sáng tạo của mỗi người. Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn nỗ lực thực hiện di nguyện của Người là “phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(2).
Theo Hồ Chí Minh, con người có ý nghĩa như một tiền đề xuất phát, một tư tưởng chỉ đạo, một lực lượng thực hiện, là mục đích của tư tưởng: bắt đầu từ con người, vì con người, do con người và trở về với con người. “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”(3). Xuất phát từ truyền thống “trọng dân” của dân tộc, Người khẳng định: “Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(4).
Thứ hai, phát huy tối đa sức mạnh của toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng, đổi mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đoàn kết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược và quyết định thành công của cách mạng. Người luôn chăm lo xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Người nói về đổi mới “là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”(5). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người luôn coi trọng vai trò của lực lượng sản xuất, của quan hệ sản xuất phù hợp, của các nhân tố kinh tế, của động lực lợi ích đối với sự phát triển. Người đặc biệt quan tâm và nỗ lực thực hiện các tầng giải phóng, đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Việc giải phóng lực lượng sản xuất, trong đó, quan trọng nhất là giải phóng lực lượng lao động và giải phóng giai cấp công nhân tạo ra động lực quan trọng trong xây dựng CNXH.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Dân tộc thống nhất ra đời là tất yếu lịch sử và đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân thực hiện các mục tiêu cách mạng. Mặt trận trở thành tổ chức quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, không phân biệt thiểu số hay đa số, giàu hay nghèo, tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, đảng phái chính trị khác nhau tạo thành tổ chức ngày càng lớn mạnh và rộng khắp. Người đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, nêu cao tinh thần đoàn kết giữa các lực lượng tiến bộ, yêu nước, bảo đảm hài hòa quyền lợi, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội. Người khẳng định: “Đoàn kết giữa đồng bào toàn quốc, từ Bắc chí Nam. Nói rộng hơn nữa: Đoàn kết giữa nhân dân ta và nhân dân các nước bạn, nhân dân châu Á, nhân dân nước Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới”(6). Đây là chủ trương sáng tạo, tư duy nhạy bén và phù hợp với thực tiễn đất nước.
Người chú trọng việc bảo đảm công bằng trong phân phối lợi ích dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, góp phần thúc đẩy mỗi người có động lực lao động, cống hiến và phát huy tối đa khả năng trí tuệ của mình. Người nói: “Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”(7). Việc bảo đảm cho mỗi người đều được thụ hưởng những thành quả cách mạng một cách công bằng, hợp lý gắn với dân chủ, bình đẳng là ưu việt của chế độ xã hội mới. Từ đó thể hiện được bản chất tốt đẹp của chế độ do “dân là chủ” và “dân làm chủ”.
Thứ ba, chú trọng chiến lược “trồng người” và phát triển nguồn lực con người để đổi mới thành công. Theo Hồ Chí Minh: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”(8). Người nhấn mạnh vai trò quan trọng của chiến lược “vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”, coi giáo dục, đào tạo là chiến lược hàng đầu nhằm phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp đổi mới. Người khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức. Cần phải học văn hóa, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác - Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày”(9), “Người có học mới có tiến bộ. Càng học càng tiến bộ”(10).
Với quan điểm: Vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả, Hồ Chí Minh rất chú trọng đến những giải pháp về giáo dục nhằm tạo tiền đề cho chiến lược phát huy nhân tố con người. Con người XHCN có thể được hoàn thiện trước một bước so với hoàn cảnh kinh tế - xã hội, nhưng phải có điều kiện. Một trong những điều kiện đó là việc coi trọng vai trò của giáo dục và đào tạo. Về mục tiêu của chiến lược giáo dục và đào tạo, Hồ Chí Minh nói: “Ta xây dựng con người cũng phải có ý định rõ ràng như nhà kiến trúc”(11). Mục tiêu đó nhằm “đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt. Những người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta”; “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích, thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”(12). Muốn đạt được mục tiêu chiến lược thì nội dung, phương pháp giáo dục phải toàn diện... Hồ Chí Minh coi việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên cần phải được quan tâm đến trước hết trong sự nghiệp trồng người bởi vì “cán bộ là gốc của công việc”. Người quan tâm thường xuyên đến giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, người chủ tương lai của nước nhà. Hồ Chí Minh nói: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà... Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó”(13).
Con người phải được đào tạo, giáo dục toàn diện để có tài và có đức; phải làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực để xã hội đều hướng tới văn hóa cao, nhân văn cao. Từ nền tảng đạo đức và văn hóa, Người nhấn mạnh việc xây dựng CNXH là kiến thiết một xã hội có văn hóa cao, “soi đường cho quốc dân đi” trên nền tảng dân trí cao thì mới có điều kiện xây dựng đất nước giàu đẹp và một dân tộc thông thái.
2. Thực hiện quan điểm đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân
Thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, đặc biệt, trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta trên cơ sở quán triệt, vận dụng tư tưởng đổi mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng, hệ thống chính trị và dân tộc ta tiếp tục vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong thực tiễn nhằm phát huy tối đa sức mạnh của toàn dân tộc, đáp ứng mục tiêu của sự nghiệp cách mạng.
Thứ nhất, phát huy dân chủ XHCN vì mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Tăng cường “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân”(14). “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội”(15). Đất nước càng đổi mới, xã hội càng phát triển thì đòi hỏi dân chủ ngày càng cao, càng bảo đảm tôn trọng và thực hiện quyền con người, quyền và lợi ích của người dân với tư cách người chủ của xã hội. Tuy nhiên, dân chủ phải đi liền với bảo đảm trật tự, kỷ cương, tuân thủ pháp luật. Vì vậy, dân chủ trong điều kiện mới phải thể hiện trong các thể chế, thiết chế của Đảng, Nhà nước và của cả hệ thống chính trị cũng như trong các quan hệ xã hội, trong đó phải đề cao tính công khai, minh bạch, tăng cường đối thoại, lắng nghe ý kiến nhân dân. Có dân chủ thật sự mới có đoàn kết thật sự, mất dân chủ thì không có đoàn kết. Xây dựng nền dân chủ để từ đó phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân trong xây dựng và phát triển đất nước chính là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Qua thực tế 35 năm đổi mới, Đảng ta đã chỉ ra rằng nơi nào thực hiện dân chủ, phát huy được trí tuệ của đông đảo cán bộ và nhân dân thì nhất định thành công. Ngược lại, nơi nào để mất dân chủ, gây ra sự bất mãn trong quần chúng thì nơi đó không tránh khỏi khó khăn, dẫn tới những hậu quả đáng tiếc. Bài học kinh nghiệm 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 cũng chỉ rõ: phải “tôn trọng quy luật khách quan, coi thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý”(15). Hiện nay, còn một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền đã trở nên quan liêu, hách dịch, xa rời nhân dân, chỉ nghĩ đến đặc lợi, đặc quyền, làm hoen ố bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng. Vì vậy, dân chủ hóa triệt để đời sống kinh tế - xã hội, nhanh chóng hoàn thiện cơ chế dân chủ, khắc phục những yếu kém, khuyết điểm trong quá trình vận hành các thiết chế dân chủ XHCN là đòi hỏi cấp bách của cuộc sống để tạo động lực lớn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cần phấn đấu thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, nghĩa là dân chủ hóa phải gắn liền với cụ thể hóa, công khai hóa những chủ trương, chính sách, dự án,... để mỗi cấp, mỗi người dân biết được việc của mình, quyền lợi và nghĩa vụ thực hiện.
Thứ hai, khơi dậy mọi tiềm năng, nguồn lực trong nhân dân để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững”(17).
Để thực hiện được điều này, Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị phải dựa vào dân, giữ mối liên hệ mật thiết với dân. Hiện nay, chúng ta đang nói nhiều đến bốn nguy cơ: tụt hậu, chệch hướng, quan liêu tham nhũng và “diễn biến hòa bình”, nhưng còn nói ít về khâu đột phá để tạo sức mạnh vượt nguy cơ. Cần phải thấm nhuần quan điểm chính trị Hồ Chí Minh: dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Vấn đề đặt ra là phải tạo ra được một hệ thống cơ chế, chính sách đồng bộ để phát huy được sức mạnh hiện có của nguồn lực con người Việt Nam, đồng thời nhanh chóng khắc phục được những nhược điểm, bất cập, thúc đẩy vươn lên đáp ứng đòi hỏi cao của thời kỳ đổi mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực, ngời sáng về phong cách đổi mới: nhạy bén nắm bắt diễn biến lịch sử, chủ động tranh thủ thời cơ, giữ vững nguyên tắc và mạnh dạn sáng tạo, kịp thời đổi mới, gắn liền lý luận với thực tiễn(18). Đổi mới tư duy cần nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ giữa “kiên định và đổi mới, vận dụng sáng tạo” theo phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định phải gắn liền với sáng tạo và sáng tạo phải trên cơ sở kiên định độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, phù hợp với thực tiễn, với con người và khát vọng Việt Nam, với yêu cầu đổi mới, hội nhập, phát triển đất nước. Kiên định một cách máy móc thì dễ dẫn đến giáo điều, cứng nhắc, bảo thủ, trì trệ, nhưng nếu không kiên định, mà đổi mới sáng tạo một cách vô nguyên tắc cũng rất dễ rơi vào chủ nghĩa xét lại, chệch hướng, “đổi màu”(19). Do đó, phải tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 9-2-2018 của Ban Bí thư khóa XII về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới” gắn với “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 9-10-2014 của Bộ Chính trị khóa XI về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030, chú trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ ba, thực hiện có hiệu quả chiến lược giáo dục là quốc sách hàng đầu, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ đắc lực sự nghiệp đổi mới. Hồ Chí Minh từng nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”(20); “Phải coi nhân tố con người là vấn đề số một”(21). Xây dựng và phát triển kinh tế muốn đạt tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả cao phải tạo ra và thường xuyên điều chỉnh các cơ chế chính sách, phương thức tổ chức quản lý... nhằm tích cực hóa nguồn lực con người, làm cho nhân lực có trí tuệ, có trình độ, sức khỏe, sáng tạo, năng động, làm cho sản xuất, kinh tế phát triển cao. Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại. Huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao(22) và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Chiến lược “trồng người” có vai trò quyết định đối với sự phát triển đất nước; việc phát triển nguồn lực con người, tức là phải tạo ra một lực lượng lao động đồng bộ, có trí tuệ, có tay nghề cao, có ý chí, quyết tâm, năng động sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Văn kiện Đại hội XIII về các đột phá chiến lược nhấn mạnh: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo;...”(23).
Theo đó, cần hình thành được đội ngũ cán bộ chiến lược, có “tâm”, có “tầm” tư duy chiến lược cao, nhìn xa, thấy rộng, có khả năng tổng kết những kinh nghiệm và lãnh đạo thực tiễn. Xây dựng đội ngũ trí thức, cán bộ khoa học - công nghệ có trình độ cao. Việc phát triển nguồn nhân lực cần chú trọng gắn kết 3 khâu: đào tạo, sử dụng, đãi ngộ. Phải thực hiện xã hội hóa học tập, tạo ra đội ngũ đông đảo những người lao động đã qua đào tạo, có văn hóa lao động công nghiệp, có phẩm chất đạo đức, có tay nghề kỹ thuật cao, có năng lực sử dụng hiệu quả thông tin, thích ứng nhanh với sự phát triển của xã hội thông tin và xã hội quốc tế hóa; có lương tâm nghề nghiệp, trách nhiệm đối với sản phẩm làm ra, có tinh thần yêu nước và tự hào dân tộc, có ý chí vươn lên không cam chịu lạc hậu, nghèo nàn; có sức khỏe dẻo dai về thể chất và tinh thần để lao động trong điều kiện cạnh tranh.
__________________
(1), (9), (20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.404, 90, 66.
(2), (5), (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, sđd, tr.622, 617, 665.
(3), (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, sđd, tr.232, 208.
(4), (10), (13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, sđd, tr.117, 335, 216.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, sđd, tr.90.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, sđd, tr.390.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, sđd, tr.7.
(14) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.118.
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Sđd, tr.374.
(16) Hội đồng Lý luận Trung ương: 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020, tr.361, 375.
(17), (23) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tr.324-325, 338.
(18) Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh - tinh hoa và khí phách dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2009, tr.219.
(19) Nguyễn Phú Trọng: Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới, Tạp chí Cộng sản, 2020, số 949, tr.8.
(21) Báo Nhân dân, số ra ngày 7-4-1965.
(22) Theo Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO): Nước công nghiệp (nước công nghiệp mới nổi) có tiêu chí: Giá trị gia tăng công nghiệp chế biến, chế tạo (CNCBCT) bình quân đầu người từ 1.000 - 2.500 USD hoặc giá trị CNCBCT chiếm trên 0,5% tổng giá trị CNCBCT toàn cầu; nước công nghiệp phát triển (nước đã công nghiệp hóa) có giá trị gia tăng CNCBCT bình quân đầu người trên 2.500 USD hoặc GDP bình quân đầu người theo sức mua tương đương trên 20.000 USD. Giá trị gia tăng CNCBCT bình quân đầu người của Việt Nam dự kiến đến năm 2030 có thể đạt trên 2.000 USD, trở thành nước công nghiệp (trong khoảng 1.000-2.500 USD).
Theo phân loại của Ngân hàng Thế giới áp dụng cho năm tài chính 2020-2021: Nhóm nước thu nhập trung bình cao có thu nhập bình quân đầu người từ 4.046-12.535 USD. Cụ thể, ngưỡng thu nhập trung bình cao năm 2020 là 3.996 USD, năm 2021 là 4.046 USD.
TS LÊ TRUNG KIÊN
Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh