Hệ quan điểm chỉ đạo trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã trình bày hệ thống quan điểm chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hệ quan điểm chỉ đạo này có ý nghĩa rất quan trọng, chứa đựng những nội dung mới về nhận thức

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã trình bày hệ thống quan điểm chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hệ quan điểm chỉ đạo này có ý nghĩa rất quan trọng, chứa đựng những nội dung mới về nhận thức lý luận, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải quán triệt trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn tới.

Kế thừa Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng đã trình bày hệ thống quan điểm chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các quan điểm này có quan hệ biện chứng với nhau tạo thành một chỉnh thể phản ánh lý luận về công cuộc đổi mới của nước ta; cụ thể như sau:

Thứ nhất, quan điểm về kiên định và sáng tạo.

Đây là quan điểm hàng đầu có ý nghĩa xuyên suốt trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp đổi mới. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng yêu cầu phải “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(1).


Trải qua chặng đường hơn 90 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, Đảng ta luôn kiên trì, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội _Đồ họa: Linh Đăng

Có thể coi đây là quan điểm về “bốn kiên định”; đồng thời, đi liền với kiên định, Đảng ta cũng yêu cầu phải vận dụng và phát triển sáng tạo. Đảng ta xác định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua là nhờ Đảng ta kiên định, trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Kiên định và sáng tạo đối với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hai mặt của một vấn đề thống nhất và biện chứng với nhau; kiên định phải trên cơ sở sáng tạo, còn sáng tạo phải trên cơ sở kiên định. Nếu “kiên định” mà không sáng tạo sẽ rơi vào bảo thủ, giáo điều, trái lại, “sáng tạo” mà không kiên định sẽ rơi vào chủ nghĩa cơ hội, xét lại, cực đoan, siêu hình. Cũng với ý nghĩa đó, có thể coi “bảo vệ” và “phát triển” là hai mặt của một vấn đề trong nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay, sự biến đổi vô cùng nhanh chóng, phức tạp, khó đoán định của tình hình thế giới đang đặt ra nhiều thách thức cho việc kiên định và sáng tạo, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nắm thật vững bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, có bản lĩnh chính trị vững vàng, thường xuyên bám sát sự thay đổi của tình hình thực tiễn trong nước và thế giới.

Trải qua chặng đường hơn 90 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, Đảng ta luôn kiên trì, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối cách mạng của Đảng; nhờ đó, tạo ra sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Tùy theo từng giai đoạn cách mạng cụ thể, Đảng ta đã đề ra chiến lược, sách lược, bước đi, mục tiêu phù hợp để giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữa dân tộc và giai cấp, giữa dân tộc và quốc tế, giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự đoán; sự gia tăng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế, đặt ra cả thời cơ và thách thức trong việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Vì vậy, phải kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đi đôi với tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, “tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, không ngừng gia tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và những thành quả phát triển đã đạt được, đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững”(2).

Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đến nay đã trải qua 35 năm. Trong 35 năm đó, nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo với nhiều đột phá, như phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, đường lối chủ động, tích cực hội nhập quốc tế... nên đất nước ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Lý luận về đường lối đổi mới không ngừng được bổ sung và hoàn thiện; lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII khẳng định: “Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, đặc biệt, trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo,... khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”(3).

Vì vậy, phải tiếp tục kiên quyết, kiên trì, kiên định đường lối đổi mới; đồng thời, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, bổ sung những nhận thức mới, không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới, tổ chức thực hiện đường lối có hiệu quả hơn.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chỉ rõ, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng. Vì vậy, phải kiên định và vận dụng sáng tạo các nguyên tắc xây dựng Đảng Cộng sản trong sạch, vững mạnh, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Đảng nào xa rời những nguyên tắc đó sẽ không tránh khỏi rơi vào suy thoái, biến chất, tan rã, đánh mất vai trò lãnh đạo của mình. Bài học về sự tan rã của Đảng Cộng sản Liên Xô và một số đảng cộng sản ở các nước Đông Âu trước đây đã cho chúng ta thấy rõ điều đó.

Quan điểm chỉ đạo trên đây được Đại hội XIII của Đảng nêu ra là những vấn đề “mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(4).

Thứ hai, quan điểm về chiến lược phát triển tổng thể đất nước.

Kế thừa và phát triển quan điểm của Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”(5).

Đảng ta coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển, là nguồn lực nội sinh (Trong ảnh: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nhân dân tại Lễ hội Đền Hùng) _Ảnh : TTXVN

Trong một thế giới toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc nhưng không rơi vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan, vị kỷ, mà phải dựa trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, nhưng phải giữ vững độc lập, tự chủ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Từ Đại hội XI, Đảng ta đã đề ra chủ trương phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững. Nhận thức về chủ trương này đến nay ngày càng rõ và sâu sắc hơn. Phát triển nhanh nhưng phải bền vững, không được chủ quan, nóng vội; phát triển bền vững nhưng không để tụt hậu, chậm trễ, rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Thực hiện các mục tiêu trong chương trình phát triển bền vững của Liên hợp quốc, ngày 25-9-2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 136/NQ-CP, “Về phát triển bền vững”; trong đó, nêu rõ 17 mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam đến năm 2030, phấn đấu đạt mục tiêu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045.

Trong thời kỳ mới, chiến lược phát triển tổng thể đất nước đòi hỏi phải gắn kết chặt chẽ, đồng bộ hơn các nhiệm vụ, các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm”(6). Đến Đại hội XII, Đảng ta bổ sung, “phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm”(7); bởi vì, kinh tế gắn chặt với xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện chịu tác động rất mạnh của biến đổi khí hậu đến môi trường, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII nhấn mạnh đến nhiệm vụ bảo vệ môi trường khi đề cập đến nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, “giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường”, bổ sung vấn đề “bảo vệ môi trường” vào mối quan hệ lớn là “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”(8).

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt, vì xây dựng Đảng liên quan đến sự sống còn của Đảng, đến bảo vệ Đảng, đến vận mệnh của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, khi nhấn mạnh tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng ta đồng thời cũng rất coi trọng nhiệm vụ xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; bởi vì, Đảng chỉ mạnh khi Nhà nước và hệ thống chính trị vững mạnh; Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật, chính sách; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện việc giám sát và phản biện xã hội, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Trong đường lối của mình, Đảng ta coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển, là nguồn lực nội sinh. Với tinh thần đó, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm “phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần”, coi trọng văn hóa trong chính trị và trong kinh tế, coi trọng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Văn hóa gắn với con người, do con người sáng tạo ra nên Đại hội XIII của Đảng khi đề cập đến quan điểm về văn hóa luôn nhấn mạnh việc phát huy vai trò con người, xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam.

Để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, kế thừa Đại hội XI, Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm “tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”. Đồng thời, Đại hội XIII của Đảng yêu cầu phải gắn kết chặt chẽ hơn nữa giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa để bảo vệ Tổ quốc.

Thứ ba, quan điểm về khơi dậy, phát huy mạnh mẽ các động lực phát triển.

Động lực là nhân tố thúc đẩy sự vận động, phát triển. Một xã hội, một tổ chức hay một con người nếu không có động lực hoạt động thì sẽ rơi vào trạng thái trì trệ, cầm chừng, thậm chí là suy thoái, tan rã. Động lực bao gồm nhiều loại, như động lực vật chất, động lực tinh thần, động lực cá nhân, động lực tập thể, có động lực làm chuyển động cả một dân tộc, động lực bên trong, động lực bên ngoài... Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã rất coi trọng vai trò của việc nhận thức và phát huy các động lực trong cách mạng. Kế thừa và bổ sung những nhân tố tạo thành động lực của Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(9). Có thể nói, điểm nhấn mới trong nhận thức về động lực của Đại hội XIII là phát huy mạnh mẽ ý chí tự cường dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Nếu như trước đây, khi đất nước bị xâm lược thì khát vọng độc lập, tự do là động lực to lớn đưa cả dân tộc vào cuộc hành quân vĩ đại đấu tranh chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc giành độc lập, tự do, thì ngày nay, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, không cam chịu đói nghèo, tụt hậu là động lực to lớn đưa cả dân tộc vào công cuộc phấn đấu vì một nước Việt Nam phát triển, thịnh vượng, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Về động lực trong lĩnh vực chính trị, văn hóa, khoa học - công nghệ, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII nhấn mạnh: “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”(10). Đổi mới sáng tạo dựa trên thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, là động lực rất mới mà chưa được đề cập đến trong các văn kiện của Đảng trước đây.

Thứ tư, quan điểm về phát huy các nguồn lực để phát triển.

Động lực và nguồn lực, tuy khác nhau, song có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nguồn lực nếu được phát huy tốt sẽ biến thành động lực, tạo điều kiện cho động lực được thúc đẩy mạnh mẽ. Có thể phân chia các nguồn lực thành nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài, nguồn lực trong nước và nguồn lực quốc tế; nguồn lực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Kế thừa quan điểm về nguồn lực phát triển trong các văn kiện Đại hội XI, Đại hội XII, Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng xác định: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”(11). Quan điểm trên đây cũng chính là đường lối, phương châm đối nội và đối ngoại trong thời kỳ mới.

Nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế _Ảnh: Tư liệu

Thứ năm, quan điểm về xây dựng Đảng gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị, với xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược.

Đại hội XIII của Đảng xác định đây là những khâu thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo thành sức mạnh chính trị to lớn có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Kiên định với quan điểm “xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”, “sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”(12), Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”; phải “phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân”(13).

Hệ quan điểm chỉ đạo trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII là kết quả của quá trình tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận qua 35 năm Đảng lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước. Hệ quan điểm đó là sự vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn đất nước và những biến đổi của tình hình thế giới. Các quan điểm thống nhất chặt chẽ với nhau, không thể coi nhẹ quan điểm nào, tạo thành nội dung quan trọng trong đường lối đổi mới của Đảng, phản ánh đúng đắn cả mục đích và phương tiện, mục tiêu và phương thức để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ sự nghiệp đổi mới, đòi hỏi các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải nghiêm túc thực hiện trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, để đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới với tầm cao mới./.

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 109

(2), (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 109, 104

(4), (5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 33, 110

(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 75

(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 17

(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 119

(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 110

(10), (11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 110, 110 - 111

(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 66

(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 111

 

GS, TS. LÊ HỮU NGHĨA
Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Tạp chí Cộng sản)

  • Tags: