Kiểm soát và giảm thiểu tác hại xã hội của tin giả

Một trong các tình huống xã hội đó chính là “Fake news”- tin giả đến từ bối cảnh bùng nổ truyền thông. Fake News là một thuật ngữ tiếng Anh, được dùng phổ biến tại Việt Nam với nghĩa là “tin giả”..

1. Vấn nạn tin giả trong bối cảnh xã hội bùng nổ thông tin

Xã hội loài người bước vào kỷ nguyên công nghệ đã mở rộng không gian sống, nhưng đồng thời cũng đặt con người vào muôn vàn tình huống cần phải đối phó. Một trong các tình huống xã hội đó chính là “Fake news”- tin giả đến từ bối cảnh bùng nổ truyền thông. Fake News là một thuật ngữ tiếng Anh, được dùng phổ biến tại Việt Nam với nghĩa là “tin giả”. Tin giả có nhiều cách hiểu, song bản chất của tin giả là một dạng thông tin chứa đựng những thông điệp không đúng sự thật khách quan như vốn có và đã xảy ra, hoặc chỉ có một phần sự thật, nhưng được gia giảm thêm nhiều tình tiết không đúng, sự giải thích bình luận gây cách hiểu méo mó, nhầm lẫn và sai lệch về sự thật như vốn có của nó. Tin giả có thể là tin tức giả, hoàn toàn sai sự thật được tung lên các loại hình truyền thông, tuy nhiên, tin giả đôi khi cũng là những tin tức thật, nhưng được dựa trên một kịch bản có sẵn nhằm tạo ra một sự kiện nào đó được chuẩn bị sẵn từ trước để tạo ra một làn sóng dư luận xấu có chủ đích. Cũng có thể chia tin giả thành 2 loại: (1) những thông tin hoàn toàn không chính xác được cố tình đăng tải, lan truyền vì một mục đích nào đó; (2) những thông tin có thể có một phần sự thật nhưng không hoàn toàn chính xác do người viết không kiểm chứng toàn bộ sự thật trước khi đăng tải, chia sẻ hoặc có thể họ phóng đại sự việc đó.

Tin giả (Fake news)

Tin giả ngày càng phổ biến và là vấn nạn ngày càng trở nên phức tạp, nguy hiểm trong hoạt động truyền thông, nhất là truyền thông xã hội ở mỗi quốc gia và trên quy mô toàn cầu. Tin giả được đăng tải trên các loại hình truyền thông vì mục tiêu vụ lợi, gây thất thiệt, tổn hại về: kinh tế, uy tín, danh dự, lợi ích của cá nhân, tổ chức, cộng đồng. Tin giả có thể chỉ là một cảm xúc, một cá nhân, lớn hơn là một cuộc khủng hoảng liên quan đến thể chế, quốc gia, dân tộc hay toàn thế giới. Các cơ quan báo chí cũng có khi trở thành nạn nhân của tin giả.

Tin giả đã xuất hiện từ lâu đời trong đời sống truyền thông quốc tế vì những mục đích khác nhau. Ngày nay với sự phát triển của internet và truyền thông xã hội, tin giả  được chắp cánh thêm môi trường rộng lớn để lan truyền gây ra các tác hại xã hội khôn lường.

Việt Nam đang thuộc nhóm các quốc gia có tỷ lệ người dân sử dụng nhiều smartphone và mạng xã hội vào loại cao trên thế giới, với thời gian dành cho smartphone, mạng xã hội cũng cỡ khoảng 2,5-3 tiếng một ngày và xu hướng đọc tin trên mạng xã hội ngày càng gia tăng. Với số lượng và nhu cầu tiếp cận thông tin ở các loại hình truyền thông rất lớn và nguy cơ tin giả cùng những hệ lụy xã hội của nó đang ngày càng gia tăng ở nước ta. Chẳng hạn, theo Bộ Thông tin và Truyền thông, tin giả về tình hình dịch bệnh và công tác phòng, chống dịch Covid-19 thời gian qua có dấu hiệu gia tăng. Thống kê của Trung tâm Xử lý tin giả Việt Nam (VAFC) thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, trong 6 tháng đầu năm 2021, Trung tâm nhận được hơn 1,1 nghìn lượt báo cáo tin giả. Sau quá trình xác minh, Trung tâm đã công bố dán nhãn 38 tin giả, tin sai sự thật. Trong đó, nhiều nội dung trong số này liên quan đến Covid-19 tại Việt Nam. Do vậy, Việt Nam cần phải chủ động xây dựng và thực hiện đồng bộ hệ thống giải pháp nhằm kiểm soát, giảm thiểu tác hại của tin giả có hiệu quả. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định: “Tăng cường quản lý và phát triển các loại hình thông tin, truyền thông trên internet. Kiên quyết loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị-xã hội, thuần phong mỹ tục” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, T1, tr 146).

 

2.Các giải pháp kiểm soát và giảm thiểu tác hại của tin giả ở Việt Nam hiện nay

Nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật và tăng cường vai trò của quản lý nhà nước trong kiểm soát và giảm thiểu tác hại của tin giả:

Một là, phát huy vai trò của lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trong phòng, chống tin giả. Nhà nước và các cơ quan chức năng cần khẩn trương thể chế hóa, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý trong thực tiễn; tích cực xây dựng khung khổ pháp luật một cách khoa học, tiến bộ để lĩnh vực truyền thông hoạt động, phát triển lành mạnh, đúng hướng. Để quản lý tốt, cần nhanh chóng tiếp tục hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật với các điều khoản cụ thể, rõ ràng, sát thực, phù hợp, theo kịp tốc độ biến động của truyền thông...thay vì chỉ dừng ở quy tắc điều chỉnh mang tính khuyến nghị đạo đức và văn hóa. Kịp thời bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật phù hợp với thực tiễn để bảo đảm môi trường pháp lý minh bạch, công khai và bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân tham gia truyền thông.

Các cá nhân, tổ chức phải có trách nhiệm pháp lý đối với các thông tin đưa lên các loại hình truyền thông, nhất là truyền thông xã hội. Đồng thời, cần có cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực thông tin, truyền thông trở thành chủ thể tích cực ứng phó với tin giả. Bên cạnh đó, cần tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan nhà nước, cung cấp thông tin kịp thời đầy đủ theo luật tiếp cận thông tin, thực hiện tốt trách nhiệm phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí.

Hai là, cần nghiên cứu tiến hành sửa đổi Luật an ninh mạng năm 2018 theo hướng có  quy định cụ thể và rõ ràng về định tính hóa và định lượng hóa những tiêu chí để chế tài mọi hành động và cá nhân, tổ chức có liên quan đến việc sản xuất tin giả, phát tán tin giả cũng như sử dụng tin giả. Trong đó, cần xây dựng định nghĩa tương đối hẹp và sáng tỏ về khái niệm tin giả; đồng thời tăng cường xây dựng năng lực và liêm chính cho các cơ quan quyền lực công chịu trách nhiệm áp đặt việc tuân thủ Luật An ninh mạng. Bổ sung những quy định “mạnh tay” hơn để xử lý các đối tượng xây dựng và tán phát tin giả. Để thực hiện tốt Luật an ninh mạng   mỗi cơ quan cần xây dựng những bộ quy tắc, quy định về những thông tin nội bộ, những thông tin bảo mật của đơn vị mình; xử lý nghiêm những hành vi phát tán thông tin nội bộ không được phép của các thành viên gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đơn vị mình; quy định về tư cách cá nhân khi phát ngôn trên trên truyền thông…

Ba là, cần nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống cơ quan chuyên trách tư vấn chính sách và giải pháp phòng, chống tin giả. Trước mắt cần phát huy vai trò, tính hiệu quả của Trung tâm xử lý tin giả thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông. Không ngừng nâng cao năng lực của các cơ quan chức năng và các điều kiện bảo đảm cho phòng, chống tin giả. Các cơ quan chức năng phải chú trọng nâng cao trình độ, năng lực, bản lĩnh cho đội ngũ cán bộ, nhân viên, đồng thời phải đầu tư trang thiết bị, công nghệ đủ để phát hiện, ngăn chặn, cảnh báo và xử lý kịp thời tin giả cũng như các đối tượng tạo lập, tán phát tin giả, tránh để bị động dẫn đến hậu quả không mong muốn.

Bốn là, tăng cường hơn nữa công tác thanh, kiểm tra, xử lý vi phạm và cũng như thiết chế hóa việc nâng cao kỹ năng và trách nhiệm xã hội phòng, chống tin giả cho mọi công dân Việt Nam. Cần phối hợp giữa các cơ quan chức năng có liên quan và của cả hệ thống chính trị để xử lý nghiêm, kịp thời những hành vi tạo tin giả và phát tán tin giả theo quy định của pháp luật. Cần sớm đưa giáo dục kỹ năng số vào trường phổ thông từ cấp học phổ thông; tăng cường kỹ năng cho người đọc tự bảo vệ mình, phân biệt được tin đúng, tin giả, tin sai sự thật và tích cực tham gia vào quá trình đấu tranh phòng, chống tin giả của đất nước. 

Sở TT&TT Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính đối với chủ tài khoản facebook có tên "Hà Nội Phố" do có hành vi "cung cấp thông tin sai sự thật". 

Nhóm giải pháp về phát huy vai trò, trách nhiệm của nhà báo và cơ quan báo chí trong kiểm soát và giảm thiểu tác hại của tin giả:

Một là, duy trì nguyên tắc bất biến-nguyên tắc sự thật của báo chí. Nguyên tắc sự thật là khi đưa tin tức một cách công bằng và khách quan, các cơ quan báo chí luôn lấy được lòng tin của công chúng, đó là cơ quan có quyền lực và đáng tin cậy. Bên cạnh cạnh đó, các nguyên tắc tác nghiệp gắn với đạo đức, trách nhiệm công dân của nhà báo cần phải được đẩy mạnh.

Hai là, để phòng, chống tin giả có hiệu quả cần phải đẩy mạnh việc đào tạo bồi dưỡng chống tin giả cho sinh viên ngành báo chí, đội ngũ các nhà báo và cơ quan báo chí. Các cơ sở đào tạo báo chí cần phải xây dựng chương trình đào tạo về tin giả và phòng, chống tin giả một cách bài bản, chuyên nghiệp. Cần tăng cường việc mở các chuyên đề, khóa tập huấn, các hội thảo, tọa đàm nghiệp vụ về nhận diện tin giả, tác hại của vấn nạn tin giả, tác động tiêu cực tới hoạt động báo chí, vai trò của báo chí và trách nhiệm của nhà báo trong chống tin giả; kỹ năng nhận biết, cảnh báo, sàng lọc, thẩm định tin tức, ngăn chặn tin giả; kĩ năng sáng tạo tác phẩm báo chí phù hợp để chống lại tin giả. Trên cơ sở đó, các nhà báo và cơ quan báo chí sẽ học hỏi, nâng cao được các kỹ năng và ý thức trách nhiệm xã hội trong hoạt động báo chí truyền thông hiện đại, chân chính.

Ba là, cần xác định mỗi nhà báo và cơ quan báo chí phải đảm bảo vai trò mục tiêu kép “vừa là nhà báo, cơ quan báo chí chuyên nghiệp, vừa là những cá nhân, tổ chức đi đầu trong chống tin giả”. Cần phải xác định nhà báo và cơ quan báo chí chính thống là nhân tố đóng vai trò chủ động trong cuộc chiến chống tin giả. Các nhà báo và tòa soạn cần phải hợp tác với nhau để đưa ra những thông điệp nhất quán xung quanh những thông tin sai trái.

Bốn là, cần phải tăng cường trách nhiệm và tính hiệu quả trong kiểm chứng nguồn tin của hoạt động báo chí. Nguồn tin luôn được phải được kiểm chứng là yếu tố vô cùng quan trọng. Do bất cứ người nào hoặc bất cứ điều gì mà nhà báo sử dụng để đưa vào câu chuyện của mình thì đều có thể xem đó là “nguồn tin”; vì vậy, cần phải được kiểm chứng là nguyên tắc không thể bỏ qua. Với việc đề cao trách nhiệm xã hội, nhà báo và cơ quan báo chí có vai trò rất lớn trong việc kiểm chứng nguồn tin và thông tin một cách công khai, minh bạch, đồng thời thoả mãn nhu cầu nhận thức về các vấn đề liên quan đế lợi ích của công chúng. Nhà báo, cơ quan báo chí phải có trách nhiệm giải trình nhiều hơn với công chúng, cắt nghĩa, phân tích xem thông tin đó thiếu chính xác dựa trên căn cứ nào. Do vậy, khi tiếp nhận, lựa chọn và sử dụng thông tin nhà báo và cơ quan báo chí phải kiểm chứng, khi thấy đúng sự thật mới chính thống hóa thông tin, đưa ra những bình luận sắc sảo góp phần nâng cao năng lực tư duy và nhận thức của độc giả.

Năm là, phát huy vai trò chủ động, tiên phong, dẫn dắt, định hướng của báo chí chính thống, bảo đảm chính xác, kịp thời, góp phần ngăn chặn tin giả. Và để báo chí chính thống chống tin giả, cần có nguồn đầu tư cho những cơ quan báo chí chủ lực của đất nước. Cần xác định việc ngăn chặn tin giả, tin xấu độc là trách nhiệm hàng đầu của báo chí chính thống, bởi báo chí ngoài việc đăng tải thông tin, phát hiện, cảnh báo tin giả, còn cần có hệ thống kiểm duyệt, kiểm chứng để đưa thông tin chính thống, tạo niềm tin cho công chúng. Báo chí phải phối hợp với cơ quan chức năng phát hiện sớm tin giả, phối hợp đánh giá tác hại của tin giả, sau đó phối hợp kiểm tra, xác minh. Các cơ quan truyền thông, báo chí cần đẩy mạnh các nội dung thông tin, bảo đảm kịp thời, chính xác, nhất là trước các vụ việc, sự kiện “nóng”, được dư luận đặc biệt quan tâm. Qua đó định hướng, dẫn dắt thông tin đúng trên mạng xã hội, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tin giả, tin tiêu cực. Phát huy vai trò chủ động, tiên phong, dẫn dắt, định hướng của báo chí trong thông tin tích cực.

Nhóm giải pháp tăng cường kỹ năng và trách nhiệm xã hội của công chúng trong trong tiếp cận và chia sẻ thông tin:

Một là, tăng cường truyền thông, giáo dục mọi người dân về hiểm họa của tin giả, kỹ năng nhận biết và trách nhiệm xã hội trong tham gia phòng, chống tin giả. Thực tế cho thấy, ngoại trừ một bộ phận cá nhân, tổ chức cố tình tạo dựng và tán phát tin giả nhằm mục đích kinh tế, chính trị, gây tổn hại đến nhân phẩm cá nhân; còn đa số cộng đồng mạng tham gia chia sẻ, thậm chí có trường hợp cũng tạo lập và tán phát những thông tin sai lệch song điều này là do tâm lý hiếu kỳ hoặc để thu hút sự chú ý của cư dân mạng. Điều đó cho thấy, đa số người tham gia truyền thông xã hội chưa hiểu rõ về tác hại của tin giả và những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình tham gia mạng xã hội. Bởi vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục trong nhà trường, gia đình và xã hội về nhận thức, trách nhiệm cho các cá nhân, tổ chức tham phòng, chống tin giả. Bên cạnh việc thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của cá nhân, mỗi công dân cần ý thức rõ việc thiết lập “vùng an toàn” trong khuôn khổ pháp luật; để một mặt bảo đảm sự an toàn cho cá nhân, bảo vệ quyền lợi của quốc gia, dân tộc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên môi trường truyền thông. 

Hai là, cần xác định ý thức, năng lực và trách nhiệm xã hội của người tiếp cận với tin giả là yếu tố quyết định nhất cho sự bền vững của việc kiểm soát và giảm thiểu tác hại xã hội của tin giả. Chìa khóa của cuộc chiến chống tin giả thực sự nằm trong tay những người sử dụng Internet và mạng xã hội. Mỗi công chúng khi tiếp cận truyền thông hãy là một “lá chắn” đối với tin giả. Để tránh chia sẻ, phát tán những thông tin giả, thông tin không đúng sự thật, mỗi người cần tỉnh táo, trở thành “người đọc thông thái”, thực hiện trách nhiệm công dân trong việc đưa tin, chia sẻ trên mạng xã hội; không nên chia sẻ các thông tin chưa được kiểm chứng, chưa được xác thực, kịp thời thông báo đến cơ quan chức năng các trường hợp đăng thông tin bịa đặt, sai sự thật.

Ba là, cần thường xuyên phổ biến, giới thiệu các kỹ năng phát hiện tin giả trên môi trường truyền thông cho công chúng thông qua các phương tiện truyền thông, mạng xã hội.

Bốn là, tăng cường tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho mỗi công chúng nắm vững và tuân thủ những nguyên tắc cốt lõi khi tham gia truyền thông.

Nhóm giải pháp về tăng cường vai trò, trách nhiệm của các tập đoàn truyền thông  và hợp tác quốc tế trong phòng, chống tin giả:

Một là, kiên trì vấn đề có tính nguyên tắc là các nhà mạng, nhà cung cấp dịch vụ, khai thác dịch vụ nhất là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới phải có trách nhiệm tuân thủ luật pháp Việt Nam, tôn trọng chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia Việt Nam. Yêu cầu các đối tác phải thể hiện sự hợp tác, tuân thủ các quy định khi vào Việt Nam như đặt cơ quan đại diện, thiết lập tính chính danh của người dùng trong đăng ký tài khoản, phối hợp tích cực để kịp thời bóc gỡ, xóa bỏ triệt để các tài khoản đưa thông tin sai sự thật,...Cần coi trọng hơn các biện pháp kinh tế, yêu cầu trách nhiệm của những doanh nghiệp phải tương xứng với lợi ích mà họ được hưởng.

Hai là, tăng cường sự cởi mở và hợp tác của các nhà cung cấp nền tảng truyền thông xã hội và sự hợp tác với các cơ quan liên quan trong việc giải quyết vấn đề tin giả. Tiếp tục  yêu cầu các công cụ tìm kiếm như: Facebook, YouTube, Google,... cam kết và thực hiện các biện pháp nhằm chống lại thông tin giả được chia sẻ trên các nền tảng của mình.

Ba là, tăng cường hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trong phòng, chống tin giả. Ở đây thể hiện rõ cách tiếp cận, phải coi việc chống tin giả là nhiệm vụ của quốc gia đối với chính quốc gia ấy và là trách nhiệm của quốc gia ấy đối với các đối tác của mình trên thế giới. Thực tiễn cho thấy cuộc chiến với tin giả đòi hỏi cần hoàn thiện khung khổ pháp lý và sự hợp tác cộng đồng quốc tế chặt chẽ, hiệu lực hơn. Hiện nay mỗi nước có cách thức và biện pháp chống tin giả khác nhau, ban hành luật pháp và quy định với mức độ chế tài khác nhau. Đồng thời, các quốc gia còn có các quy định chung về chống tin giả trong khuôn khổ những thỏa thuận song phương cũng như đa phương giữa các quốc gia và tổ chức với nhau.

Bốn là, cần phải xác định, cuộc chiến chống tin giả mang tính toàn cầu không phải là hạn chế quyền tự do thông tin, mà trên thực tế là biện pháp cần thiết vì sự an toàn xã hội ở tất cả các quốc gia. Do đó, trong bối cảnh thế giới nhiễu loạn nhiều nguồn thông tin, việc phối hợp chặt chẽ giữa các quốc gia để bảo đảm có thể truyền bá thỏa mãn nhu cầu thông tin chính đáng; hạn chế tính độc hại của thông tin đối với sự phát triển lành mạnh của xã hội càng trở nên quan trọng đối với tất cả các quốc gia trên thế giới.

Nhóm giải pháp tăng cường nghiên cứu khoa học về tin giả và sử dụng trí tuệ nhân tạo trong phòng, chống tin giả:

Một là, tăng cường nghiên cứu khoa học mang tính liên xuyên ngành: công nghệ thông tin, báo chí-truyền thông, luật học, tâm lý học, xã hội học…để nhận diện được tin giả, quy luật hình thành và phát triển của tin giả, tác hại của tin giả, các giải pháp phòng chống, kiểm soát và hạn chế tin giả...

Hai là, tăng cường sự phối hợp và hợp tác giữa các cơ quan chuyên môn và công nghệ thông tin trong việc sản xuất và sử dụng các phần mềm nhận diện tin giả và ứng phó với tin giả. Phải kết hợp chuyên gia các chuyên ngành chuyên sâu và giới chuyên môn trong lĩnh vực thông tin, báo chí. Phát huy vai trò của các nhà chuyên môn trong việc sàng lọc, nhận diện, phân tích thông tin trên các phương tiện truyền thông là một cách hiệu quả để ứng phó với tin giả.

Ba là, tăng cường thúc đẩy các giải pháp công nghệ, các biện pháp kỹ thuật phù hợp bắt kịp với sự phát triển của Internet, truyền thông xã hội. Tăng cường ứng dụng công nghệ để phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời các thông tin sai sự thật, xấu, độc có ảnh hưởng đến ổn định chính trị, xã hội. Nâng cao năng lực phân tích, điều tra, nghiên cứu công chúng, đo lường thái độ của người sử dụng Internet, tham gia truyền thông xã hội đối với những vấn đề được dư luận quan tâm. Để những thông tin sai lệch không in sâu trong nhận thức của người tiếp cận truyền thông xã hội, phần mềm chống tin giả phải làm việc nhanh chóng, ngăn chặn thông tin xấu trước khi nó có thể đến tay người dùng. Công nghệ này có thể nhắc nhở người dùng tin tức nào là giả mạo. Chẳng hạn tại nước Anh, Logical là công ty đi đầu sử dụng AI để chống lại tin giả. Phương pháp tiếp cận của Logical gồm ba hướng: nguồn gốc của nội dung, nội dung và siêu dữ liệu liên quan đến nội dung đó để cung cấp thông tin toàn diện, bổ sung và xác thực được nội dung. Giải pháp này giúp phân loại những nội dung được nhận định là tin giả trước khi người dùng có thể đọc được.

 

3.Một số nhận định và vấn đề đặt ra

Một là, tin giả không phải là vấn đề mới. Tuy nhiên, chỉ đến khi có sự trợ giúp của truyền thông xã hội, tin giả mới thật sự trở thành một “đại dịch” của xã hội. Tin giả có thể xuất phát từ sự vô ý, tùy tiện, thiếu trách nhiệm hoặc chủ ý của người tạo ra và đưa tin, nhằm phá hoại và trục lợi về kinh tế, làm giảm uy tín, hiệu quả hoạt động của cơ quan, hệ thống thể chế quốc gia và cá nhân; đầu độc dư luận và sự phát triển lành mạnh, dân chủ của xã hội. Vấn nạn tin giả đã, đang và sẽ tiếp tục tồn tại, len lỏi phát tán trong cộng đồng với những nội dung, quy mô và trong nhiều lĩnh vực khác nhau, gây nhiều hệ lụy tiêu cực, đe dọa sự lành mạnh thông tin và ổn định trật tự xã hội. Thậm chí, một số báo chí và nhà báo cũng vô tình hay cố ý bị mắc bẫy tin giả, sản xuất và phát tán tin giả, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, thổi phồng sự sợ hãi, gây hoang mang trong dư luận xã hội…Tin giả có tốc độ lan truyền nhanh gấp 10-20 lần so với tin thật và luôn là một thách thức đối với tất cả các quốc gia trên thế giới hiện nay. Cuộc chiến chống lại những thông tin giả mạo dường như chưa thể đi đến hồi kết. Do đó, những công chúng tiếp cận truyền thông nên trở thành những “người đọc thông thái” bằng cách luôn cập nhật các nguồn tin chính thống cũng như phát triển kỹ năng cần thiết để kiểm chứng, đối chiếu thông tin khi đối mặt với “cơn bão” tin giả.

Hai là, thời đại của trí tuệ nhân tạo (AI) mà chúng ta đang chứng kiến sẽ mang lại những cơ hội mới cho sự sáng tạo, nhưng cũng khiến thông tin sai lệch và bị thao túng nhiều hơn. Trong thời gian tới, khi công nghệ cao, kể cả sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) bị lợi dụng nhiều hơn nữa trong quá trình sản xuất tin giả, thì khối lượng tin giả sẽ còn tăng với tốc độ nhanh chóng và đi vào từng ngõ ngách của cuộc sống. Và do đó, nó ngày càng ảnh hưởng đến từng cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng và các tổ chức kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội; có thể gây tác động tiêu cực toàn bộ đời sống xã hội, đến nền kinh tế và cả thể chế chính trị... Tin giả và đối phó tin giả giống như trò đuổi bắt vô định, mà mỗi bên đều cố gắng sử dụng những công cụ tinh vi nhất; kết quả là người đuổi càng nhanh thì người chạy còn nhanh hơn.

Ba là, tin giả có xu hướng ngày càng khó phân biệt, nhưng yêu cầu cốt lõi đặt ra là phải phân biệt, nhận biết được tin giả thì mới có thể kiểm soát, giảm thiểu tác hại xã hội của tin giả có hiệu quả. Nếu không phân biệt được thì chính công chúng hằng ngày sẽ không biết đâu là “thật”, “giả hoàn toàn” hoặc sai sự thật, bị bóp méo tới mức nào để có phương thức ứng phó phù hợp và kịp thời. Còn đối với các cơ quan quản lý thông tin, phân biệt được tin giả là để đưa ra chính sách quản lý phù hợp hiệu quả với từng dạng thông tin và loại hình truyền thông. Về lý thuyết cũng như trên thực tế, muốn đẩy lùi tin giả, cuộc chiến chống tin giả phải được tiến hành đồng thời nhằm vào nguồn phát của tin giả, nhằm vào quá trình phát tán tin giả và nhằm vào nơi sử dụng tin giả. Vấn nạn tin giả vận hành theo chu trình “sản xuất - lưu hành - sử dụng” tin giả và do vậy liên quan trực tiếp đến con người sản xuất ra và sử dụng tin giả cũng như môi trường phát tán tin giả trong hoạt động truyền thông. Cuộc chiến chống lại tin giả sẽ không bao giờ có giải pháp hoặc cách ngăn chặn hiệu quả 100%. Nhưng chúng ta có thể kiểm soát và hạn chế được sự xuất hiện, lan tỏa và tác hại của tin giả đối với sự phát triển bền vững và lành mạnh của xã hội.

Bốn là, thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam cho thấy, các loại hình truyền thông đang có xu hướng cố gắng theo kịp tốc độ hấp thụ tin tức của công chúng, trong khi nhu cầu tin tức của công chúng đang ngày càng gia tăng và chưa bao giờ có dấu hiệu chậm lại. Điều này tạo ra  áp lực lớn đối với các tổ chức truyền thông cung cấp tin tức cho công chúng. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hệ lụy phức tạp khi mà “cung không kịp đáp ứng cầu”. Chẳng hạn, là tính kịp thời của thông tin. Truyền hình trực tiếp hay “live stream” về một sự kiện nào đó không phải là thông tin nhanh nhất, thông tin nhanh nhất hiện nay chính là tin giả, lý do là chúng đã luôn có kịch bản chuẩn bị sẵn.

Năm là, tại Việt Nam hiện nay, việc kiểm soát những thông tin sai sự thật liên quan đến phòng, chống đại dịch Covid-19 được đánh giá là có hiệu quả. Sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và xã hội, cũng như các cơ quan truyền thông trên “mặt trận” chống tin giả là một đặc điểm nổi bật của Việt Nam, được thế giới đánh giá cao. Tuy nhiên, với việc số lượng người dân tham gia truyền thông xã hội ngày càng đông đảo, với nhiều xu hướng mức độ thể hiện nhu cầu, điều kiện, kỹ năng và trách nhiệm xã hội khác nhau. Đặc biệt, các thế lực thù địch đang có xu hướng gia tăng việc sử dụng tin giả để chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, gây mất an ninh và trật tự, an toàn xã hội của đất nước. Tin giả đang ngày càng tinh vi và nguy hiểm khi chúng được núp dưới danh nghĩa các chiêu bài của “chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa mị dân” với sự cộng hưởng của truyền thông xã hội. Đây thực sự là thách thức to lớn, nhưng cần phải vượt qua trong hoạt động phòng, chống “diễn biến hòa bình”,  đấu tranh phản bác các âm mưu sai trái của các thế lực thù địch, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Sáu là, việc tăng cường khả năng đề kháng của người dân, xã hội, doanh nghiệp và hệ thống chính trị trước tác động của tin giả trên cơ sở kết hợp giữa phản ứng cứng và phản ứng mềm đang trở thành một xu hướng có tính khả dĩ cần phải được nghiên cứu và áp dụng ở Việt Nam trong thời gian tới. Theo đó, cách phản ứng mềm là dùng hệ pháp luật truyền thống, hệ thống khuyến khích và các giải pháp kỹ thuật để chống lại tin giả. Các cách thức này ít ảnh hưởng đến quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt; tạo điều kiện cho tranh luận xã hội; nắm bắt được phản ứng của xã hội đối với chính sách của Nhà nước dễ dàng, chính xác hơn. Tuy nhiên, cách thức này cũng tạo ra sự khó khăn, tốn kém trong việc chống lại tin giả trong những bối cảnh cụ thể. Trong khi đó, cách phản ứng cứng là ban hành luật chuyên ngành để chống lại tin giả; coi trọng sự can dự của Nhà nước trong việc chống tin giả. Cách thức này tạo tính răn đe đối với hành vi đưa tin giả cao hơn. Nếu bộ máy quyền lực công liêm chính, hiệu năng việc chống tin giả sẽ có hiệu quả cao. Tuy nhiên, sự lạm quyền cách thức cứng có thể ảnh hưởng đến quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt; tranh luận xã hội có thể khó khăn hơn./.

 

TS. Đỗ Văn Quân[1]
Ths. Lại Thị Thu Hà[2]

  • Tags: