Phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”: Chủ động, kiên quyết, nghiêm minh hơn nữa

Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và những hành vi tham nhũng, tiêu cực của cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên giữ chức vụ cấp cao là con đường ngắn nhất và trực tiếp không chỉ

Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và những hành vi tham nhũng, tiêu cực của cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên giữ chức vụ cấp cao là con đường ngắn nhất và trực tiếp không chỉ hạ thấp mà thậm chí còn thủ tiêu vai trò chính trị, thực lực chính trị và uy tín chính trị của Đảng, Nhà nước.

1. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, những hành vi tham nhũng, tiêu cực không còn là một khái niệm trừu tượng mà đã biểu hiện rất cụ thể trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả những người giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, cấp cao. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””(1). Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Đảng cũng nhấn mạnh: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật”(2).

Thực tế cho thấy, những sự suy thoái nêu trên ngày càng diễn biến tinh vi, phức tạp với nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Đó là hành vi lợi dụng quyền lực, biến quyền lực chính trị được nhân dân ủy thác thành “của riêng” để đổi chác, ban phát, mua bán... Bên cạnh đó là sự “a dua” “vào hùa” với những ý kiến lệch lạc, thiếu khách quan, thiếu toàn diện về sự nghiệp đổi mới của đất nước; đòi đa nguyên, đa đảng; xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phản bội lại lợi ích quốc gia - dân tộc....

Kinh nghiệm lịch sử chỉ rõ, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và những hành vi tham nhũng, tiêu cực của cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên giữ chức vụ cấp cao là con đường ngắn nhất và trực tiếp không chỉ hạ thấp mà thậm chí còn thủ tiêu vai trò chính trị, thực lực chính trị và uy tín chính trị của Đảng, Nhà nước. Nếu không kịp thời sửa chữa, Đảng sẽ đánh mất vai trò lãnh đạo, đồng thời không còn là đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam.

2. Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “một số cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu chưa nhận diện đầy đủ mức độ suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” tại địa phương, cơ quan, đơn vị mình; chưa quyết tâm và có biện pháp chỉ đạo đủ mạnh, còn thụ động, trông chờ vào sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên; không thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, chưa gương mẫu, mất đoàn kết nội bộ, chưa thẳng thắn đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, thậm chí còn cục bộ, lợi ích nhóm, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất, thờ ơ, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân”(3). Đảng nhìn nhận sự suy thoái này có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong đó, nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân, từ việc bản thân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên mất trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân. Nguyên tắc tập trung dân chủ bị buông lỏng, nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện không nghiêm. Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, luật pháp thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời. Quản lý cán bộ, đảng viên còn lỏng lẻo. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ. Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi chưa thường xuyên, không nghiêm túc...

Để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Đảng phải “không lơi tay” trong thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp; chủ động, kiên quyết, nghiêm minh hơn nữa, trong đó tập trung vào một số khâu đột phá:

Một là, tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đảng xác định: “Tăng cường đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng”(4). Theo đó, trong giáo dục phải hết sức coi trọng chất lượng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; vận dụng sáng tạo lý luận phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Từng cơ quan, đơn vị phải xây dựng thực chất kế hoạch giáo dục cho mọi đối tượng, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Phương pháp giáo dục phải đa dạng, phong phú, cụ thể, gợi mở để cán bộ, đảng viên tự kiểm điểm, tự rèn luyện, tự tu dưỡng; nâng cao tính chiến đấu, tinh thần thẳng thắn, dũng cảm trong tự phê bình và phê bình, nhất là đối với những hành vi trái với chuẩn mực đạo đức cách mạng. Kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống” trong đó “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược lâu dài, “chống” là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách. Coi trọng khâu đột phá trong giáo dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm tăng cường sức đề kháng ngăn chặn chủ nghĩa cá nhân. Ngại rèn luyện, lười suy nghĩ, lười học tập là nguyên nhân trực tiếp làm cho cán bộ, đảng viên trở nên lạc hậu, nảy sinh chủ nghĩa cá nhân. Khi chủ nghĩa cá nhân phát triển thì những kiến thức và kinh nghiệm tích lũy được cũng chỉ nhằm phục vụ cho mưu toan, tính toán, vun vén cho bản thân, gia đình, lợi ích nhóm. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản nhất làm suy giảm nghiêm trọng sự trong sạch, vững mạnh và uy tín của một đảng cách mạng chân chính, hết lòng vì nước vì dân. Đảng xác định: “Chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức, đề cao trách nhiệm nêu gương, ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp; thực hiện nghiêm các quy định nêu gương của Đảng, quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm, cán bộ giữ cương vị càng cao càng phải tiên phong, gương mẫu”(5). Theo đó, việc tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức phải chú trọng tăng cường trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, yêu cầu cán bộ càng cao càng phải gương mẫu thực hiện.

Hai là, phát huy hơn nữa vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu gắn với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về vai trò của công tác cán bộ là “then chốt của then chốt”, có ý nghĩa quyết định mọi thành công của sự nghiệp cách mạng cả trước mắt và lâu dài. Mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp, các ngành phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ trách nhiệm của mình để tự giác, gương mẫu thực hiện. Kết luận số 21-KL/TW của Đảng đã nhấn mạnh: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có lý tưởng cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, có năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ”(6). Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần có chương trình tổng thể, lộ trình khoa học để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, động viên được sự nỗ lực sáng tạo của các tổ chức, lực lượng. Trên cơ sở đánh giá đúng ưu điểm, hạn chế khuyết điểm của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chủ chốt, cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền cần điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch đội ngũ cán bộ các cấp; có kế hoạch luân chuyển, điều động, cất nhắc, bổ nhiệm cán bộ một cách khách quan; kiên quyết cho thôi giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý đối với những người tín nhiệm thấp, phẩm chất năng lực không tương xứng. Cấp ủy các cấp và các cơ quan chức năng nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng cán bộ cho phù hợp với điều kiện mới; xây dựng hoàn thiện quy chế, quy định về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng với công tác tổ chức và công tác chính sách; giữa tuyên truyền, giáo dục chính trị với công tác tổ chức, công tác cán bộ, công tác kiểm tra giám sát. Cấp ủy, tổ chức đảng phải là nơi đầu tiên phát hiện, ngăn ngừa, khắc phục những mầm mống của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những hành vi tham nhũng, tiêu cực và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. “Ban hành các cơ chế về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xử lý tập thể, cá nhân suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”; cơ chế bảo vệ, khuyến khích nhân dân phản ánh, tố giác cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực”(7). Kiên quyết đấu tranh với sự phai nhạt lý tưởng cách mạng; sa sút về ý chí chiến đấu, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh, thậm chí còn phụ họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc; sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, hám quyền lực, tham nhũng, tiêu cực; bè phái cục bộ, mất đoàn kết; quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân...

Ba là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tổ chức và cá nhân trong kiểm tra, giám sát cán bộ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Quá trình giải quyết vừa đề cao tính tích cực chủ động, tự giác của cá nhân vừa phát huy tốt vai trò của tổ chức với quy trình chặt chẽ, nội dung thống nhất, khoa học. Trên cơ sở những quy định chặt chẽ, cùng với những nội dung cụ thể, những tiêu chí rõ ràng, nhất là hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, tiêu cực được Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII bổ sung, làm rõ, đó là Quy định 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm (thay thế QĐ 47-QĐ/TW). Từng cấp ủy, chi bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu phải chủ động, tự giác đối chiếu với những quy định, tự liên hệ, kiểm điểm để thấy rõ, thấy hết những ưu điểm và hạn chế, khuyết điểm và có kế hoạch phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế khuyến điểm. Đó cũng là quá trình đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa mặt tốt và mặt xấu trong mỗi tổ chức, mỗi con người như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”(8).

Ảnh minh họa (Internet)

Việc động viên, yêu cầu phát huy tính chủ động, tự giác của mỗi người phải đi cùng với những biện pháp, quy định chặt chẽ, nghiêm minh; sự kiên quyết phải đi liền với kiên trì, có lộ trình, bởi chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, vụ lợi, hám danh, bè phái cục bộ... chắc chắn không thể “làm nhanh, làm gọn” - khắc phục triệt để trong một sớm, một chiều. Đồng thời, phải “tập trung giám sát cán bộ, đảng viên có lời nói, việc làm biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Uỷ ban kiểm tra các cấp tăng cường kiểm tra, giám sát và kiên quyết xử lý, kỷ luật nghiêm minh đối với cán bộ, đảng viên suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” ngay tại cơ sở, chi bộ”(9).

Bốn là, phát huy vai trò của nhân dân trong việc ngăn chặn, đẩy lùi, chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh với sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên. Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII nhấn mạnh phải “khuyến khích nhân dân phản ánh, tố giác cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực”(10). Cùng với tích cực, chủ động phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của nhân dân, nhất là đối với các chủ trương, chính sách tác động đến đông đảo người dân, cần đẩy mạnh phát huy vai trò của dư luận xã hội, vận dụng dư luận xã hội để phát huy các chức năng đánh giá, điều chỉnh các quan hệ xã hội, giáo dục, giám sát tư vấn - phản biện và giải tỏa tâm lý xã hội. Đổi mới công tác dân vận của hệ thống chính trị, nhất là công tác dân vận chính quyền các cấp. Tạo bước chuyển biến thực chất hơn trong giám sát của nhân dân đối với việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ, đảng viên. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải thực hiện nghiêm túc việc tiếp dân định kỳ hoặc đột xuất để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý phản ánh, kiến nghị của nhân dân, nhất là những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Xây dựng và thực hiện nghiêm cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh, tố giác và tích cực đấu tranh chống suy thoái, tham nhũng, tiêu cực.

Năm là, kịp thời phát hiện, vạch trần mọi âm mưu, luận điệu, hoạt động của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, xuyên tạc, chống phá. Một mặt, vừa phải đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch và “xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân lợi dụng Internet, mạng xã hội để xuyên tạc sự thật, kích động, gây rối, chia rẽ đoàn kết nội bộ”(11). Mặt khác, cần phải tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, giữ vững trận địa tư tưởng chính trị. Bởi, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên có tác động trực tiếp từ những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, phản động, sự dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo của các thế lực thù địch và các đối tượng cơ hội chính trị, bất mãn, tiêu cực. Vì vậy, cần chủ động các phương án, biện pháp đột phá cụ thể, tổ chức lực lượng thích hợp để đấu tranh, phản bác có hiệu quả đối với các quan điểm sai trái, các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị.

Đại tá, PGS. TS. DƯƠNG QUANG HIỂN; Trung tá, ThS. NGUYỄN VĂN HÙNG - Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng

_______________________

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2021, t.I, tr.92. (2) (3) (4) (5) (6) (7) (9) (10) (11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25 tháng 10 năm 2021, H, 2021, tr.1, 1, 2, 2, 3, 3, 4, 3, 2. (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.15, tr.672.

  • Tags: