Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách, pháp luật thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghệ cao

Trong bối cảnh trí tuệ nhân tạo (AI) đang ngày càng phát triển mạnh mẽ và xu hướng dịch chuyển chuỗi bán dẫn toàn cầu, việc hoàn thiện chính sách, pháp luật thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao của Việt Nam cũng cần tiếp tục có những đổi mới với những chính sách ưu đãi vượt bậc, đột phá mới để việc thu hút các “đại bàng” công nghệ cao thực sự hiệu quả và bứt tốc.

Dự kiến, Việt Nam có thể thu hút lượng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ở mức kỷ lục, khoảng 39-40 tỷ USD cho cả năm 2024. Trong bối cảnh đang phải đối mặt với nhiều thách thức từ bên ngoài, điều này cho thấy khả năng phục hồi và sức hấp dẫn của nền kinh tế Việt Nam. Với nhiều lợi thế, Việt Nam đang có nhiều cơ hội để tham gia vào chuỗi giá trị công nghệ toàn cầu. Chính phủ Việt Nam đã, đang và sẽ nỗ lực chuẩn bị các điều kiện tốt nhất để sẵn sàng chào đón nhà đầu tư trong các ngành công nghệ cao.

Cơ hội và thực trạng thu hút FDI lĩnh vực công nghệ cao

-Cơ hội trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi công nghệ toàn cầu:

Việt Nam có cơ hội trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi công nghệ toàn cầu nhờ năng lực phản ứng chính sách ngày càng được nâng cao, thể chế, khung khổ pháp lý liên quan dần được hoàn thiện, như việc nghiên cứu và trình Nghị định về thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ đầu tư nhằm ổn định môi trường đầu tư; bảo đảm sức cạnh tranh và hấp dẫn nhằm khuyến khích, thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia.

Các tổ công tác chuyên biệt được thành lập để trực tiếp đàm phán, hỗ trợ, các tập đoàn lớn như Nvidia, SK,… đã đầu tư vào Việt Nam và đưa ra những cam kết về tăng trưởng xanh, giảm phát thải khí nhà kính với mục tiêu phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050, trong đó chuyển đổi cơ cấu năng lượng sang ưu tiên các nguồn năng lượng mới, năng lượng sạch, tái tạo. Việt Nam cũng có lực lượng lao động chất lượng, chi phí hợp lý đã và đang hoạt động trong ngành công nghiệp điện tử, với hơn 50% dân số dưới 30 tuổi (thời kỳ dân số vàng) và khoảng 1,8 triệu sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng hằng năm.

Ngoài ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng mới trình Đề án phát triển nguồn nhân lực cho ngành bán dẫn, với mục tiêu đào tạo, phát triển 50.000 nhân lực cho ngành đến năm 2030. Mục tiêu của Việt Nam là tiếp tục khẳng định vai trò là đối tác tin cậy và trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị công nghệ toàn cầu trong tương lai không xa. Theo Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam, các kế hoạch mở rộng kinh doanh vẫn đầy tiềm năng, với gần 80% số doanh nghiệp cho biết, họ đã có từ 1 đến 3 văn phòng hoặc cơ sở sản xuất tại Việt Nam. Trong số các doanh nghiệp chia sẻ kế hoạch mở rộng sản xuất, kinh doanh, hơn một nửa dự định mở rộng hoạt động với nhiều kế hoạch phát triển các cơ sở sản xuất mới ở miền bắc hoặc mở thêm văn phòng tại các thành phố trọng điểm như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Cần Thơ.

Việt Nam đang được xem là hình mẫu thành công trong thu hút FDI nhờ thể chế và môi trường đầu tư ngày càng được hoàn thiện, nền tảng chính trị ổn định và nền tảng tăng trưởng kinh tế khá cao. Theo đó, Tập đoàn Apple của Mỹ đã hoàn tất việc chuyển 11 nhà máy sản xuất các thiết bị nghe nhìn vào Việt Nam. “Bộ ba” đối tác quen thuộc của Apple tại Việt Nam là Foxconn, Luxshare và Goertek cũng đồng loạt tăng vốn, mở rộng nhà máy ở Việt Nam. Hiệp hội Công nghiệp bán dẫn Mỹ cùng nhiều doanh nghiệp đã đến Việt Nam tìm hiểu môi trường đầu tư như là một địa điểm dịch chuyển sản xuất chíp. Những chính sách gần đây của Mỹ đã nhìn nhận Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong chính sách này của họ. Hiện tại, nguồn lực cho chính sách này đang được Mỹ bổ sung và một khoản tiền không nhỏ từ Đạo luật Chíp sẽ hỗ trợ đối tác Việt Nam trong ngành bán dẫn. Nhiều dự án lớn ở các lĩnh vực bán dẫn như nhà máy sản xuất, lắp ráp và thử nghiệm vật liệu, thiết bị bán, sản xuất pin, tế bào quang điện, thanh silic, sản xuất linh kiện, sản phẩm điện tử, sản phẩm có giá trị gia tăng cao được đầu tư mới và tăng vốn đầu tư. Bên cạnh mục tiêu thu hút khoảng 39-40 tỷ USD vốn FDI, năm 2024 Việt Nam có thể đạt mức giải ngân vốn FDI kỷ lục với 25 tỷ USD, đạt được mục tiêu Bộ Chính trị đề ra tại Nghị quyết số 50-NQ/TW.

Theo ghi nhận, phần lớn các dự án tập trung trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 63%). Trong đó, có nhiều dự án lớn ở các lĩnh vực bán dẫn, năng lượng (sản xuất pin, tế bào quang điện, thanh silic), sản xuất linh kiện, sản phẩm điện tử, sản phẩm giá trị gia tăng cao được đầu tư mới và mở rộng. Việt Nam cũng được đánh giá là điểm đến hấp dẫn và an toàn nên đang có làn sóng đầu tư vào Việt Nam với các dự án lớn thuộc lĩnh vực công nghệ, điện, điện tử,…Hiện đã có hơn 50 doanh nghiệp trong ngành công nghiệp bán dẫn hoạt động tại Việt Nam như Intel, Amkor, Hana Ampere, Marvell, Cadence, Renesas... Điều này không chỉ tạo ra việc làm mà còn giúp chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực sản xuất cho doanh nghiệp trong nước.

-Thực trạng hoạt động thu hút đầu tư FDI trong lĩnh vực công nghệ cao

Theo các chuyên gia, để thiết kế một con chip phải mất 4 - 6 tháng, 500 công đoạn, đi qua 55 nghìn km, qua 70 quốc gia mới có được 1 con chip từ lúc khởi đầu ý tưởng đến sản phẩm cuối cùng. Vì thế, để thành công, Việt Nam phải tạo ra được một hệ sinh thái. Trong 4 khâu: thiết kế, chế tạo, kiểm thử và đóng gói, Việt Nam có thể tham gia khâu đầu và khâu cuối. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất chính là nguồn nhân lực. Cần 50 nghìn kỹ sư, nhưng hiện mới có 5 nghìn và mỗi năm chỉ thêm được 500.

Khách quan mà nói, những năm gần đây, cùng với sự thay đổi trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam đã thể hiện quyết tâm có sự thay đổi chiến lược về hệ thống pháp luật và chính sách để nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư FDI vào Việt Nam. Các quy định pháp luật về đầu tư nói chung và việc thu hút FDI ở Việt Nam hiện đang dần được bổ sung hoàn thiện. Luật Đầu tư (sửa đổi năm 2020) cũng có nhiều quy định mới về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư cho nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, tận dụng nguồn lực từ trong nước cũng như thúc đẩy việc thu hút nguồn vốn FDI vào Việt Nam như: bổ sung một số ngành, nghề ưu đãi đầu tư (hoạt động đổi mới sáng tạo; sản xuất hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ tham gia chuỗi giá trị, cụm liên kết ngành); bổ sung quy định về nguyên tắc, điều kiện áp dụng chính sách ưu đãi đầu tư để bảo đảm hiệu quả, chất lượng của việc thực hiện chính sách này (như: áp dụng ưu đãi có thời hạn, theo kết quả thực hiện dự án; nhà đầu tư phải bảo đảm đáp ứng điều kiện ưu đãi trong thời gian được hưởng ưu đãi theo quy định của pháp luật). Đặc biệt, Luật Đầu tư (sửa đổi 2020) cũng đã bổ sung quy định cho phép Thủ tướng Chính phủ áp dụng ưu đãi đặc biệt để tạo cơ chế, chính sách đủ sức hấp dẫn, kịp thời thu hút dòng vốn FDI đang dịch chuyển nhanh chóng trong bối cảnh hiện nay…Tuy nhiên, nhiều quy định vẫn còn chồng chéo, chưa thực sự hoàn thiện, đang tạo những rào cản đối với thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư công nghệ cao.

Thực tế cho thấy, có ba trở ngại lớn nhất trong hoạt động của các doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam, đó là gánh nặng hành chính, quy định chưa rõ ràng và khó khăn trong việc xin giấy phép; nhiều quy định vẫn còn chồng chéo, chưa theo kịp yêu cầu phát triển... Vì vậy, ngoài những giải pháp từ phía Chính phủ đề ra như cắt giảm chi phí logistics và cải thiện hạ tầng, Việt Nam cần tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính và tăng cường chất lượng nguồn nhân lực trình độ cao, giúp tạo nên một môi trường thuận lợi cho các lĩnh vực công nghệ cao và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Các chuyên gia cho rằng, thu hút và sử dụng FDI cũng bộc lộ một số vấn đề cần được khắc phục, như một số doanh nghiệp FDI gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, chuyển giá, trốn thuế, lậu thuế, lãi thật, lỗ giả, công nghệ trung bình, thậm chí lạc hậu, tranh chấp lao động, đầu tư lướt sóng. Về công nghệ và quản trị, Việt Nam gần như không thu được nhiều kỹ năng quản trị và gần như chưa nhận được tác động chuyển giao công nghệ từ các dự án FDI. Đặc biệt, việc kết nối giữa doanh nghiệp nước ngoài với doanh nghiệp trong nước còn hạn chế.

Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về thu hút đầu tư FDI

Như đã nói ở trên, mặc dù thời gian qua các cơ quan chức năng không ngừng nỗ lực để hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách nhằm nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư FDI vào Việt Nam, song vẫn còn những quy định chồng chéo, chưa theo kịp yêu cầu phát triển... Vì vậy, để thu hút được nhiều dòng vốn FDI có chất lượng vào lĩnh vực công nghệ cao, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, có cơ chế chính sách tạo thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động, trong đó có doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia vào nghiên cứu và phát triển (R&D), tăng kết nối với khu vực doanh nghiệp trong nước và tăng sự đóng góp vào nền kinh tế. Hiện tại và tương lai Việt Nam đang có xu thế thu hút FDI thế hệ mới gắn với tăng trưởng xanh cho nên việc đổi mới, hoàn thiện chính sách thu hút FDI thế hệ mới hướng vào các công nghệ ít tiêu tốn năng lượng, nhiên liệu, công nghệ ít phế thải, công nghệ khép kín, công nghệ xanh là hướng đi tất yếu.

Đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg, ngày 01/10/2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050. Theo tinh thần đó, Việt Nam cần đổi mới chính sách thu hút FDI, chuyển từ thu hút FDI “theo chiều rộng” sang thu hút FDI “theo chiều sâu”, trong đó tập trung khuyến khích thu hút FDI vào công nghệ cao, thân thiện với môi trường, góp phần xanh hóa các ngành kinh tế và bảo vệ môi trường quốc gia, khu vực và thế giới.

Trước những yêu cầu cấp thiết đó, vấn đề bổ sung, hoàn thiện chính sách pháp luật nhằm tăng cường thu hút đầu tư FDI công nghệ cao, theo các chuyên gia, cần thực hiện những giải pháp sau:

Một là, có chính sách thực sự tạo điều kiện, hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp phát triển, nghiên cứu, làm chủ công nghệ, đặc biệt là công nghệ có tính ứng dụng cao đối với các ngành công nghiệp mũi nhọn ở Việt Nam. Trong tương lai, nhiều ngành nghề và dịch vụ đơn giản sẽ bị loại bỏ do việc chuyển đổi số và công nghệ robot, tự động hóa, trí tuệ nhân tạo (AI)… Có chính sách đẩy nhanh chuyển đổi số, tập trung phát triển công nghệ thông tin, công nghệ số thay thế sức lao động và ít bị ảnh hưởng của dịch bệnh trong tương lai; xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển công nghiệp công nghệ số; xây dựng và triển khai Chiến lược phát triển công nghiệp vi mạch bán dẫn Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; xây dựng Luật Công nghiệp công nghệ số, thúc đẩy phát triển các sản phẩm dịch vụ mới, chính sách xây dựng kết cấu hạ tầng công nghiệp công nghệ số.

Hai là, có cơ chế bảo vệ quyền lợi sáng chế công nghệ rõ ràng, có chế tài xử lý vi phạm bản quyền sáng chế, nhằm đảm bảo quyền lợi cho doanh nghiệp có sáng chế khoa học tạo ra lợi nhuận bền vững, tạo động lực cho doanh nghiệp tiếp tục nghiên cứu.

Ba là, kết hợp giữa khối doanh nghiệp tư nhân và khối doanh nghiệp nhà nước phát triển các công nghệ lõi, công nghệ cao, có tính ứng dụng rộng rãi trong nhiều ngành nghề. Phát triển doanh nghiệp đầu ngành tự chủ công nghệ lõi phục vụ các ngành thiết yếu như nông nghiệp, may mặc, thiết bị y tế, viễn thông.

Bốn là, xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp chuyên nghiệp. Khuyến khích phong trào khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ngay trong các viện nghiên cứu và trường đại học; khuyến khích sự kết hợp giữa chuyên ngành khoa học máy tính, khoa học công nghệ và các lĩnh vực kinh doanh, chế tạo. Xây dựng các quỹ đầu tư mạo hiểm, hoặc liên kết tài trợ cho việc đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nhân lực, tiếp cận công nghệ thế giới nhanh chóng hơn…

Bên cạnh đó:

+ Cần sớm hoá giải các quy định xung đột, chồng chéo lớn trong các văn bản luật như: Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Quy hoạch đô thị, Luật Đấu thầu; Luật Nhà ở... Cần đặc biệt lưu ý nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục đầu tư, quy định về tiếp cận tài nguyên đất đai, tài chính… liên quan đến hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.

+ Tập trung rà soát và kịp thời tháo gỡ những rào cản về thủ tục hành chính, quy định về phòng cháy chữa cháy, môi trường, hải quan; các quy định về chuẩn, tiêu chuẩn phù hợp với thông lệ quốc tế… để môi trường đầu tư kinh doanh thực sự trở nên thông thoáng hơn hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

+ Cần sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp để giải tỏa nỗi lo lắng khi thuế tối thiểu toàn cầu có hiệu lực vào năm 2024 sẽ ảnh hưởng đến chiến lược đầu tư và hiệu quả của dự án của cộng đồng doanh nghiệp FDI.

Việt Nam có nhiều lợi thế để thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghệ cao nói chung, công nghiệp bán dẫn nói riêng, đặc biệt là cơ hội từ việc nâng cấp quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với Hoa Kỳ. Việc tận dụng được cơ hội này không chỉ tăng chất lượng nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực mới, mà còn là cú hích giúp Việt Nam đẩy mạnh chuyển đổi nền kinh tế, hướng tới nền kinh tế tri thức, với cốt lõi là đổi mới sáng tạo và khoa học công nghệ./.

Ths. Bùi Tuấn Hùng

...
  • Tags: