Văn kiện Đại hội XIII - Sự thật khách quan bác bỏ các luận điệu xuyên tạc

Hệ thống quan điểm, chủ trương, giải pháp của Đại hội XIII, với những cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc, phong phú, sinh động là tất yếu bảo đảm tính khoa học, hệ thống, vừa toàn diện, vừa lịch sử, cụ thể và khả thi.

Hệ thống quan điểm, chủ trương, giải pháp của Đại hội XIII, với những cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc, phong phú, sinh động là tất yếu bảo đảm tính khoa học, hệ thống, vừa toàn diện, vừa lịch sử, cụ thể và khả thi.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng diễn ra trong bối cảnh sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo đã được tiến hành 35 năm và đạt “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”, đất nước ta chưa bao giờ có “cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế quốc tế” như hiện nay. Vì vậy, Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII gắn với việc đánh giá 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới; 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH); 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020; đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045. Các văn kiện Đại hội, theo đó, phải vừa đề ra quan điểm chỉ đạo mang tính tổng kết thực tiễn, khái quát, hệ thống hóa lý luận; vừa cụ thể hóa thành các chủ trương, giải pháp phát triển đất nước trong từng giai đoạn, trên từng vấn đề...

Các đại biểu biểu quyết thông qua Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. (Ảnh: TTXVN)

Tuy nhiên, sau khi Đại hội diễn ra thành công rất tốt đẹp, các văn kiện Đại hội được thông qua và công bố, thì những thế lực thù địch và thành phần bất mãn, ấu trĩ lại tung ra những luận điệu xuyên tạc, rằng các quan điểm và giải pháp của Đại hội XIII đưa ra “dày như gai mít”, chồng chéo, cái nọ cản trở cái kia nên không thể thực hiện được. Vậy, bản chất của luận điệu này là gì?

Xét về logic hình thức, luận điểm phản động trên chỉ nhìn nhận một vài lát cắt của vấn đề, đi vào từng ý tiểu tiết, cố tình cô lập với chỉnh thể, vi phạm phương pháp luận duy vật biện chứng và lịch sử. Chẳng hạn, khi cho rằng các quan điểm và giải pháp mà Đại hội đưa ra là dày đặc, chồng chéo, họ chỉ mới xem xét trên từng vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng - an ninh, từng nội dung, giải pháp cho mỗi vấn đề đó mà chưa đồng thời đặt trong tính toàn diện, hệ thống, tính lịch sử - quá trình của toàn bộ các quan điểm, vấn đề cần xem xét. Muốn đúc rút kinh nghiệm của 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII (2006-2021), nhận định, dự báo về tình hình, xu thế hiện tại và tương lai phát triển của đất nước, tất yếu phải đánh giá thành tựu và hạn chế của giai đoạn này. Tiếp đó, khi đề ra quan điểm, chủ trương, giải pháp phát triển của giai đoạn 5 năm 2021-2026, định hướng đến 2030, tầm nhìn đến 2045, đương nhiên cần kế thừa, bổ sung và phát triển các quan điểm, chủ trương, giải pháp đã có. Tương tự như vậy, quan điểm, chủ trương, giải pháp trên từng lĩnh vực phải vừa phù hợp với nhận thức về vấn đề chung, khái quát là mô hình và con đường quá độ lên CNXH của đất nước, vừa phải thể hiện tính kế thừa, phát triển trong tư duy của Đảng ở mỗi giai đoạn, thời kỳ lịch sử.

Xét về nội dung, luận điệu “các quan điểm và giải pháp của Đại hội XIII cái nọ cản trở cái kia nên không thể thực hiện được” đang giải thích sai hoặc cố tình đánh tráo luận đề về một số vấn đề cơ bản trong các văn kiện của Đại hội. Điển hình là việc họ cho rằng đã “kiên định niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường mà Đảng và Bác Hồ kính yêu đã lựa chọn”(1), tức là con đường độc lập dân tộc gắn với CNXH thì không thể áp dụng “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, bởi đó là sản phẩm đặc thù, là “con đẻ” của chủ nghĩa tư bản. Họ cho rằng, “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là một mô hình “không giống ai” khi kết hợp khiên cưỡng, bằng cách áp đặt chủ quan ý chí của Nhà nước Việt Nam vào quá trình hình thành, vận động và phát triển của kinh tế thị trường - vốn phải hoàn toàn tuân thủ các quy luật kinh tế…(!).

Trên cơ sở thực tiễn lịch sử nhân loại và kinh nghiệm của chính Việt Nam, Đảng ta đã đúc rút những kết luận hết sức quan trọng: Việt Nam quá độ lên CNXH “bỏ qua” hình thái kinh tế - xã hội TBCN “tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại(2). Kinh tế thị trường vốn không phải là sản phẩm riêng có của CNTB mà là thành tựu chung của nền văn minh nhân loại. Kinh tế thị trường thực chất là kinh tế hàng hóa ở trình độ phát triển cao, có mầm mống từ giai đoạn cuối của xã hội chiếm hữu nô lệ; CNTB phát triển kinh tế thị trường lên trình độ cao chứ không sinh ra nó. Như vậy, để xây dựng thành công CNXH, Đảng xác định quan điểm phát triển “kinh tế thị trường định hướng XHCN” là hoàn toàn đúng đắn, thể hiện tư duy biện chứng, kế thừa, đổi mới và phát triển. Đồng thời, từ quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, đặc biệt là tại Đại hội XIII, Đảng cũng đã dần bổ sung, phát triển nhận thức về “định hướng XHCN” trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay; chỉ ra hệ thống chủ trương, giải pháp để từng bước hiện thực hóa, phát huy tác dụng của mô hình kinh tế ấy.

Kinh tế thị trường vốn không phải là sản phẩm riêng có của CNTB mà là thành tựu chung của nền văn minh nhân loại. Kinh tế thị trường thực chất là kinh tế hàng hóa ở trình độ phát triển cao, có mầm mống từ giai đoạn cuối của xã hội chiếm hữu nô lệ; CNTB phát triển kinh tế thị trường lên trình độ cao chứ không sinh ra nó.

Trên cơ sở "điểm mặt, chỉ tên" những luận điệu nêu trên, để bác bỏ nó, chúng ta cần làm rõ các căn cứ cơ bản sau:

Thứ nhất, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung, đường lối của Đại hội XIII nói riêng được xây dựng trên cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc, đặc biệt là thực tiễn của sự nghiệp đổi mới 35 năm qua.

Về lý luận, đó là sự “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” về mô hình và con đường quá độ lên CNXH; về xây dựng Đảng, kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; về phát huy dân chủ, “dân là gốc”; về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; về phát triển hài hòa kinh tế - văn hóa - xã hội - bảo vệ môi trường, đề cao mục tiêu vì con người. Đó còn là sự kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc, tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, thể hiện tập trung ở các quan điểm: “Khơi dậy tinh thần và ý chí, quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(3);“chú trọng đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển nền kinh tế số, xã hội số…, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư…(4).

Về thực tiễn, những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong sự nghiệp đổi mới, cụ thể là trong nhiệm kỳ khóa XII chứng tỏ hệ thống quan điểm, chủ trương, giải pháp của Đảng qua nhiều kỳ đại hội đã có tính khả thi rất cao, phát huy được giá trị khoa học cũng như giá trị thực tiễn của mình. Đại hội XIII đánh giá đó là những thành tựu “rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật”. Cụ thể, trong 35 năm đổi mới, kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao (khoảng 6%/năm). Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, kinh tế vĩ mô được ổn định vững chắc. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng, được tiến hành toàn diện, đồng bộ, hiệu quả trên tất cả các mặt. Trước tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, chúng ta đã chủ động xử lý thành công các tình huống, không để bị động, bất ngờ, giữ vững an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và trật tự, an toàn xã hội. Hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, không ngừng mở rộng và đi vào chiều sâu. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 tác động mạnh đến tình hình thế giới và trong nước, gây nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội, Việt Nam vẫn đạt kết quả, thành tích quan trọng, được thế giới ghi nhận, ngưỡng mộ. Đặc biệt, chúng ta đã kịp thời khống chế, cơ bản kiểm soát, ngăn chặn được sự lây lan của COVID-19 trong cộng đồng; giảm thiểu những tổn thất, thiệt hại do dịch bệnh gây ra, đảm bảo an sinh và phúc lợi xã hội cho nhân dân; thực hiện thành công “mục tiêu kép” - vừa khống chế, ngăn chặn đại dịch, vừa phục hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống và an toàn cho người dân. Những điều này khiến Việt Nam trở thành “điểm sáng” trong bức tranh kinh tế toàn cầu và thể hiện rõ rệt tính ưu việt, nhân văn của chế độ XHCN.

Hệ thống quan điểm, chủ trương, giải pháp của Đại hội XIII, với những cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc, phong phú, sinh động như thế tất yếu bảo đảm tính khoa học, hệ thống, vừa toàn diện, vừa lịch sử, cụ thể và khả thi.

Thứ hai, các quan điểm, chủ trương, giải pháp được Đại hội XIII đưa ra không phải trên “mảnh đất trống” về nhận thức mà dựa trên sự kế thừa, phát triển những quan điểm chỉ đạo, giải pháp đã có từ nhiều kỳ đại hội trước đó. Nhiều vấn đề mang tính nguyên tắc luôn được thể hiện trong các văn kiện Đảng một cách nhất quán: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, kiên định đường lối đổi mới của Đảng, kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; chủ trương xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị XHCN, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện, kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia… Vì vậy, không thể nói rằng: những quan điểm, giải pháp được Đảng đề ra trước đây đã mang lại hiệu quả thiết thực, đến Đại hội XIII tiếp tục kế thừa, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới lại không thể thực hiện được.

Thứ ba, các quan điểm, chủ trương, giải pháp mà Đại hội XIII đưa ra đã được thể hiện trong Dự thảo Văn kiện Đại hội, được tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; được góp ý, chỉnh sửa nhiều lần; được nhiều nhà nghiên cứu khoa học, nhà lý luận nghiên cứu, biên soạn một cách nghiêm túc, tính toán từng từ, từng câu. Dự thảo Văn kiện được đánh giá có quá trình chuẩn bị “công phu, chu đáo, bài bản, qua nhiều lần, nhiều vòng, từng bước hoàn thiện, có nhiều đổi mới quan trọng về nội dung và phương pháp” nên sau khi được thông qua tại Đại hội và bổ sung, chỉnh sửa càng được nâng tầm giá trị(5). Biểu hiện cụ thể là:

1) Các quan điểm, chủ trương, giải pháp được Văn kiện Đại hội trình bày theo phương pháp chủ yếu là lịch sử kết hợp với logic, bảo đảm tính khoa học, phù hợp thực tiễn. Nội dung được chia tách thành từng mảng vấn đề bám sát lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là lý luận hình thái kinh tế - xã hội của Mác và tư tưởng Hồ Chí Minh về mô hình, con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Điều này khiến người đọc, người nghiên cứu nhận thức rõ sự “kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” trong đường lối của Đảng và dễ theo dõi, quán triệt, thực hiện…

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII tại Đại hội XIII là một minh chứng sinh động. Cấu trúc cơ bản của Báo cáo được thể hiện theo trục lịch sử: Từ tổng kết, đánh giá “kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và cơ đồ đất nước sau 35 năm đổi mới” đến “tầm nhìn và định hướng phát triển” trong các giai đoạn tới (bao gồm nội dung dự báo tình hình, quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, định hướng chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội và định hướng phát triển 10 năm 2021-2030). Sau khi trình bày mục tiêu, quan điểm, định hướng phát triển khái quát trên tất cả các lĩnh vực của đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Báo cáo đi vào phân tích chủ trương, giải pháp trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Đó là các thành tố thuộc từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng: từ mô hình tăng trưởng đến thể chế kinh tế; từ giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ và văn hóa, xã hội, trong đó chú trọng vấn đề tài nguyên, môi trường đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại; từ củng cố, phát huy nền tảng, động lực của hệ thống chính trị là khối đại đoàn kết toàn dân tộc đến xây dựng, hoàn thiện các thiết chế của hệ thống chính trị là Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thành viên… Cuối cùng, Báo cáo chính trị chốt lại “Những nhiệm vụ trọng tâm, các đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ Đại hội XIII” để cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nắm vững và chú trọng thực hiện.

2) Văn kiện Đại hội có văn phong súc tích, từ ngữ chắt lọc, mỗi nhận định, đánh giá, nội dung bổ sung đều có căn cứ, lý do xác đáng, thể hiện tư duy kế thừa, đổi mới, phát triển.

Ví dụ, trong nhận định, đánh giá về nhiệm kỳ Đại hội XII và tổng kết 35 năm đổi mới, Đại hội khẳng định: Chúng ta đã đạt nhiều thành tựu “rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật”. Gắn với đánh giá đó, Văn kiện dẫn giải, phân tích căn cứ thực tiễn xác đáng là thành tựu trên từng lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh và xây dựng Đảng, có số liệu thống kê định lượng chứng minh. Kết hợp với những nhận xét, đánh giá của đại diện chính phủ các nước trên thế giới/các tổ chức quốc tế, của truyền thông và dư luận quốc tế, khẳng định của Đại hội XIII càng tăng thêm giá trị thuyết phục. Hoặc, Đại hội bổ sung mối quan hệ cơ bản cần chú trọng bảo đảm là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế, đảm bảo kỷ cương xã hội; nhấn mạnh một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm là “quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; tăng cường bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu”(6). Đây là sự kế thừa quan điểm về các mối quan hệ lớn cần giải quyết trong quá trình quá độ lên CNXH, đồng thời cập nhật những diễn biến mới của tình hình kinh tế - xã hội, thực trạng biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường gia tăng ở trong nước và xu thế phát triển chung của thế giới.

Điển hình là quan điểm của Đảng về “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Khái niệm này trong Văn kiện Đại hội XIII thể hiện rõ nét quá trình tư duy mang tính kế thừa, bổ sung, phát triển của Đảng. Tại Đại hội IX, Đảng ta lần đầu tiên nêu khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN” - là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và “chịu” sự dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH. Đến Đại hội X và XI, Đảng chỉnh sửa chữ “chịu” thành “được” trong “được sự dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH”. Đại hội XII bổ sung, điều chỉnh thêm một bước khái niệm cho phù hợp yêu cầu của thực tiễn phát triển kinh tế thị trường ở nước ta: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(7). Điểm mới ở đây là sự nhấn mạnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trước hết cần “vận hành đầy đủ, đồng bộ” theo các quy luật của kinh tế thị trường, giảm thiểu, đi đến xóa bỏ sự can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính, mang tính chất chủ quan, duy ý chí của các cơ quan quản lý nhà nước, tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quy luật kinh tế như: Quy luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh… Điều này thể hiện sự thay đổi toàn diện, triệt để tư duy của Đảng về kinh tế thị trường theo hướng coi kinh tế thị trường là cơ chế vận hành của toàn bộ nền kinh tế, quyết định việc phân bổ mọi nguồn lực đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất, kinh doanh.

Một nét mới nữa trong khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN” tại Đại hội XII là luận điểm: “Bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Nhận thức này góp phần giải quyết sự khó khăn, vướng mắc giữa lý luận với thực tiễn, khi mà thành phần kinh tế nhà nước, công cụ chủ yếu để Nhà nước ta điều tiết nền kinh tế theo định hướng XHCN trên thực tế chưa tạo ra đa số việc làm cho xã hội cũng như đóng góp tỉ trọng ưu thế trong cơ cấu GDP so với thành phần kinh tế tư nhân. Cùng với đó, Đảng định hình rõ nét hơn thế nào là “thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” theo hướng coi trọng vai trò “định hướng, dẫn dắt, thúc đẩy” các thành phần kinh tế khác hoạt động vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” hơn là căn cứ chủ yếu vào tỉ trọng đóng góp của thành phần kinh tế này trong cơ cấu GDP. Một vài thuật ngữ khi lý giải về các tiêu chí của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng được bổ sung, điều chỉnh: Quan hệ sản xuất “tiến bộ, phù hợp” thay cho “công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”, “chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, an sinh xã hội” thay cho "phúc lợi xã hội"…

Tại Đại hội XIII, khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN” được xác lập như sau: “Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”(8). Xuất phát từ thực tiễn quá trình hội nhập quốc tế toàn diện, ngày càng sâu rộng, hiệu quả của đất nước và yêu cầu hiện đại hóa nền kinh tế, bắt kịp và vận dụng thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Đảng ta bổ sung đặc điểm “là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế” khi định danh mô hình “kinh tế thị trường định hướng XHCN” của Việt Nam; còn lại, về cơ bản, khái niệm này kế thừa nhận thức của các kỳ Đại hội trước.

3) Các quan điểm, chủ trương trong Văn kiện Đại hội có tính toàn diện, tính khái quát và hệ thống hóa cao, phản ánh mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và CNXH. Đại hội không chỉ tập trung bàn về quá trình và kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII, trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và 35 năm đổi mới; mà còn đặc biệt tập trung phản ánh quá trình, kết quả và mục tiêu, định hướng của công tác tổ chức xây dựng Đảng, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các giai đoạn đã qua cũng như thời gian tới. Từ đó, lý luận của Đảng về mô hình và con đường quá độ lên CNXH ở nước ta, về xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền - vấn đề trọng tâm, xuyên suốt, mang tính nguyên tắc và có giá trị chỉ đạo chiến lược trong đường lối của Đảng “ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”(9).

Với chủ đề: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(10), Đại hội XIII trở thành biểu tượng kết tinh của ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì một nước Việt Nam “hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(11) như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu trước lúc đi xa...

Chúc mừng thành công của Đại hội XIII, trong đó có thành công của công tác nhân sự và công tác soạn thảo, thông qua các Văn kiện, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội, lãnh đạo nhiều nước trên thế giới, bạn bè quốc tế đã gửi điện, thư chúc mừng Đảng Cộng sản Việt Nam. Điện chúc mừng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc viết: “Kể từ Đại hội thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay, Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chú trọng tăng cường công tác xây dựng Đảng, dẫn dắt nhân dân Việt Nam đạt được nhiều thành tựu trong thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đổi mới. Đứng trước tác động của dịch bệnh COVID-19, Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát huy vai trò lãnh đạo kiên cường, phòng chống dịch bệnh hiệu quả, duy trì tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, thể hiện ưu thế của chế độ XHCN...”. Thư của Tổng thống Mỹ Joe Biden có đoạn: “Năm qua đánh dấu kỷ niệm 25 năm quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ. Quan hệ đối tác toàn diện mạnh mẽ, đầy sức sống mà hai nước chúng ta đã và đang cùng nhau xây dựng là dựa trên nền tảng tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Tôi luôn tự hào ủng hộ mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ...”. Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long đánh giá: “Dưới sự lãnh đạo của ngài, Việt Nam đã phát triển vượt bậc trong thập niên vừa qua. Đại hội Đảng lần thứ XIII đánh dấu sự khởi đầu một giai đoạn then chốt mới của quá trình phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam”… Như vậy, chính đại diện chính phủ của các nước lớn, các nước trong khu vực và bạn bè quốc tế đã thay chúng ta khẳng định thành công của sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cũng chính là khẳng định giá trị, ý nghĩa đường lối của Đảng mà Văn kiện Đại hội XIII là sự kế thừa, bổ sung, phát triển và dần hoàn thiện.

(1) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.1, tr.10, 46, 37, 19, 52, 102, 128, 25, 14.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006 tr.179.

(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2009, t.2, tr.512.

Thiếu tướng, PGS. TS. Phan Xuân Tuy

Hiệu trưởng Trường Đại học An ninh nhân dân

  • Tags: