Chuyển đổi số trong bộ máy chính quyền thành phố Đà Nẵng: Thực trạng và định hướng

Bài viết sau, tác giả nghiên cứu thực trạng chuyển đổi số trong bộ máy chính quyền tại thành phố Đà Nẵng. Từ đó đề xuất giải pháp đẩy mạnh chuyển đổi số trong bộ máy chính quyền thành phố Đà Nẵng hiện nay.

Chuyển đổi số là quá trình chuyển đổi từ cách sống, cách làm việc truyền thống sang cách sống và làm việc mới dựa trên các nền tảng, công nghệ số (Điện toán đám mây-Cloud, trí tuệ nhân tạo-AI, dữ liệu lớn-Bigdata… các hệ thống nền tảng..), ứng dụng số (các hệ thống thông tin, phần mềm…), nguồn dữ liệu số và sự kết nối của chúng trên không gian số, từ đó tạo ra phương thức mới, những cơ hội và giá trị mới cho hoạt động quản lý, điều hành, phục vụ người dân của Chính quyền; hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trong đời sống, văn hóa của người dân.

Ví dụ: Chuyển đổi số về cung cấp dịch vụ công, gồm các cấp độ: (1) Số hóa các hồ sơ, tài liệu, thông tin, quy trình liên quan đến hoạt động cung cấp dịch vụ công; (2) Ứng dụng số trong cung cấp dịch vụ công, đó là lựa chọn, sử dụng Cổng dịch vụ công, phần mềm Một cửa điện tử, các công cụ hỗ trợ dựa trên nền tảng công nghệ để tối ưu hóa nguồn dữ liệu số hóa, thực hiện các bước trong quy trình cung cấp dịch vụ công trên môi trường điện tử; (3) Chuyển đổi số, là sự chuyển đổi từ mô hình giải quyết TTHC truyền thống sang cung cấp dịch vụ công trực tuyến trên môi trường mạng, qua đó tạo ra phương thức, cách thức mới trong hoạt động cung cấp dịch vụ công.

Quá trình chuyển đổi số trong hoạt động cung cấp dịch vụ công được coi là hoàn thành khi toàn bộ cách thức, quy trình cung cấp dịch vụ công truyền thống của các cơ quan nhà nước phục vụ người dân, tổ chức, doanh nghiệp được chuyển đổi sang cách thức, quy trình mới, thực hiện hoàn toàn trên môi trường mạng, 100% dịch vụ công được thực hiện trực tuyến mức độ 4.

Trong bối cảnh hiện nay, chuyển đổi số đang trở thành động lực lớn nhất tạo ra sự phát triển đột phá trên các mặt quản lý, kinh tế, xã hội. Để thích ứng với tình hình mới và tận dụng cơ hội mà cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư mang lại, ngày 27/9/2019, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó nhấn mạnh yêu cầu cấp bách để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số. Trên cơ sở đó, ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến 2030. Theo đó, Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp.

Ngày 24/1/2019, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW về xây dựng và phát triển TP. Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó, công nghiệp công nghệ cao là một trong 3 trụ cột chính được quan tâm tập trung phát triển, với mục tiêu đến năm 2030 sẽ đóng góp 10% tổng sản phẩm trên địa bàn Thành phố, tầm nhìn đến năm 2045 “Đà Nẵng trở thành đô thị lớn, sinh thái và thông minh, là trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và thành phố biển đáng sống đạt đẳng cấp khu vực châu Á”. Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội lần thứ XXII Đảng bộ Thành phố đã xác định một trong 3 nhiệm vụ trọng tâm, đột phá là: “Đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là phát triển mạnh công nghiệp công nghệ cao và công nghệ thông tin, gắn với xây dựng đô thị khởi nghiệp sáng tạo, thành phố thông minh, tạo nền tảng thúc đẩy phát triển các ngành lĩnh vực mới, nhất là kinh tế số, xã hội số và chính quyền số”.

UBND thành phố đã ban hành Đề án Chuyển đổi số trên địa bàn thành phố đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; trong đó xác định chuyển đổi số là phương tiện, công cụ, động lực, là “chìa khoá” để xây dựng thành phố thông minh; đặc biệt là thực hiện mục tiêu “Đến năm 2030: Hoàn thành xây dựng đô thị thông minh kết nối đồng bộ với mạng lưới đô thị thông minh trong nước và khu vực ASEAN”.[1]

1. Thực trạng chuyển đổi số trong bộ máy chính quyền tại thành phố Đà Nẵng

Theo Báo cáo chỉ số đánh giá chuyển đổi số năm 2023 của Bộ Thông tin và Truyền thông, thành phố Đà Nẵng năm thứ 3 liên tiếp đứng Nhất các tỉnh thành (cả nhất 03 trụ cột: Chính quyền số, Kinh tế số và Xã hội số); với số điểm tổng lại 0,8002/1,0 điểm (hay đạt 80,02%). Trong đó, xếp hạng Cổng dịch vụ công TP. Đà Nẵng xếp loại A (điểm số từ 90 đến 100 điểm).

Thành phố đã hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu dịch vụ công trực tuyến và bắt đầu sử dụng dữ liệu số trong chỉ đạo, điều hành và cung cấp dịch vụ công theo hướng dịch vụ số. Tính đến nay, Đà Nẵng đạt tỷ lệ 96% dịch vụ công trực tuyến có phát sinh hồ sơ (vượt chỉ tiêu quốc gia năm 2023 là 90%; chỉ tiêu của Thành phố năm 2023 là 95%). Tính đến tháng 6/2023, đã tích hợp được 1.627 dịch vụ công trực tuyến lên hệ thống dịch vụ công quốc gia.

Thành phố bắt đầu đưa dịch vụ ngoài một cửa và dịch vụ sự nghiệp công lên cung cấp trực tuyến mức 4 trên Cổng dịch vụ công Thành phố; sử dụng dữ liệu số để đơn giản hóa thủ tục hành chính, thay thế thành phần hồ sơ giấy khi thực hiện thủ tục hành chính. Đến tháng 6/2023, Đà Nẵng đã cấp hơn 394.000 tài khoản định danh điện tử, chiếm 32% dân số Thành phố (chỉ tiêu quốc gia giao là 30%; tỷ lệ trung bình toàn quốc hiện là 60%); 81/96 cơ sở khám chữa bệnh triển khai khám chữa bệnh bằng thẻ CCCD gắn chip.

- Chuyển đổi số trong các cơ quan hành chính:

Thành phố đã hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu dịch vụ công trực tuyến và bắt đầu sử dụng dữ liệu số trong chỉ đạo, điều hành và cung cấp dịch vụ công theo hướng dịch vụ số. Tính đến nay, Đà Nẵng đạt tỷ lệ 96% dịch vụ công trực tuyến có phát sinh hồ sơ (vượt chỉ tiêu quốc gia năm 2023 là 90%; chỉ tiêu của Thành phố năm 2023 là 95%), tích hợp được 1.627 dịch vụ công trực tuyến lên hệ thống dịch vụ công quốc gia. Tháng 06/2023, toàn thành phố có 94% TTHC cung cấp toàn trình (mức 4); Tỷ lệ hồ sơ trực tuyến tính chung toàn thành phố đạt tỷ lệ 95%, tăng 22% so với cuối năm 2022 và cao hơn 1,5 lần so với mức trung bình toàn quốc (61,81%); và hiệu quả liên được cải thiện [2].

Thành phố bắt đầu đưa dịch vụ ngoài một cửa và dịch vụ sự nghiệp công lên cung cấp trực tuyến mức 4 trên Cổng dịch vụ công Thành phố; sử dụng dữ liệu số để đơn giản hóa thủ tục hành chính, thay thế thành phần hồ sơ giấy khi thực hiện thủ tục hành chính. Đến tháng 6/2023, Đà Nẵng đã cấp hơn 394.000 tài khoản định danh điện tử, chiếm 32% dân số Thành phố (chỉ tiêu quốc gia giao là 30%; tỷ lệ trung bình toàn quốc hiện là 60%); 81/96 cơ sở khám chữa bệnh triển khai khám chữa bệnh bằng thẻ CCCD gắn chip.

Các giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ công được tăng cường, nhằm giảm/tránh tình trạng người dân đến tập trung chờ ở khu vực một cửa khi có đột biến nhu cầu (như cấp lý lịch tư pháp) gồm: Rà soát, chuẩn hóa, điện tử hóa mẫu đơn, tờ khai theo hướng cắt giảm tối thiểu 20% thông tin khai báo trên cơ sở tái sử dụng dữ liệu số; sử dụng dữ liệu số để thay thế thành phần hồ sơ giấy, không yêu cầu người dân xuất trình, nộp sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy, giấy xác nhận thông tin cư trú (CT07) khi thông tin tra cứu được từ CSDL quốc gia về dân cư; khuyến nghị các tổ chức, doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý của cơ quan, đơn vị ưu tiên sử dụng DVCTT mức 4 đối với các TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, đơn vị mình; bổ sung cán bộ bưu điện nhận hộ sơ tại khu vực một cửa; phát huy hiệu quả Đại lý dịch vụ công trực tuyến của các bưu cục/bưu điện trên địa bàn từng xã/phường trong nhận và nộp giúp hồ sơ cho người dân;....    

Đà Nẵng đã hoàn thành đưa vào sử dụng Kho kết quả số thủ tục hành chính (TTHC) số (có giá trị như kết quả giấy); để các cơ quan triển khai sử dụng lại; từ đó có cắt giảm một số thủ tục hành chính (như các thủ tục cấp lại do hư hỏng, mất (toàn Thành phố có khoảng 190 thủ tục, chiếm 10% tổng số TTHC các loại); thực hiện ngay trong ngày đối với thủ tục cấp đổi (toàn Thành phố có khoảng 180 thủ tục); không yêu cầu người dân, doanh nghiệp nộp bản giấy thành phần hồ sơ đối với kết quả số đã có. Triển khai dịch vụ công trực tuyến toàn trình “nâng cao” có gắn mã QR tại Sở Giao thông Vận tải, Ban Quản lý An toàn thực phẩm. Đồng thời, Sở Thông tin và Truyền thông và Sở Nội vụ đang phối hợp triển khai thí điểm ứng dụng thôn, tổ dân phố 4.0 phục vụ chuyển đổi số trong hoạt động của thôn, tổ dân phố, khu dân cư trên địa bàn thành phố.

UBND thành phố đã phê duyệt Đề án Tổ chức, vận hành Trung tâm giám sát, điều hành thành phố thông minh phục vụ chính quyền đô thị; Thành lập Trung tâm Thông tin và giám sát, điều hành thông minh Đà Nẵng trên cơ sở tổ chức lại Trung tâm Thông tin dịch vụ công Đà Nẵng; Quy định chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức đối với Trung tâm Thông tin và giám sát, điều hành thông minh Đà Nẵng. Dự án Trung tâm IOC đang hoàn thiện các chức năng phần mềm đã đưa vào vận hành từ tháng 6/2023.

- Chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng, Mặt trận, đoàn thể:

UBND thành phố đã phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án Ứng dụng CNTT trong hoạt động của các cơ quan Đảng, Mặt trận, đoàn thể chính trị xã hội 2021-2025.        Năm 2023, Đà Nẵng đã triển khai Ứng dụng thông tin phục vụ tham mưu tổng hợp của Văn phòng Thành ủy; số hóa VR360 phòng truyền thống Đảng bộ thành phố, triển khai mô hình sổ tay Đảng viên điện tử; xây dựng Đề án CSDL theo dõi thực hiện kết luận thanh tra và kiểm toán nhà nước trên địa bàn thành phố,… Thành phố đã phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án đầu tư hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến tổng thể trên địa bàn thành phố (Quyết định số 1906/QĐ-UBND ngày 18/7/2022); trong đó đầu tư bổ sung thiết bị hội nghị trực tuyến cho các cơ quan tham mưu, giúp việc và các đảng ủy trực thuộc Thành ủy phục vụ triển khai kịp thời công tác chỉ đạo, điều hành.

Thành Đoàn triển khai các nhiệm vụ thanh niên tham gia chuyển đổi số năm 2023; theo đó tập trung tuyên truyền hướng dẫn tạo lập tài khoản công dân số, định danh điện tử; tổ chức Ngày hội thanh niên tiên phong chuyển đổi số; xây dựng App Thanh niên Đà Nẵng; triển khai số hóa địa chỉ đỏ, di tích lịch sử thành phố…

Qua thực tế các năm triển khai xây dựng chính quyền số, tiến tới hình thành đô thị thông minh, hiện đại, thành phố đã nhận thấy một số khó khăn vướng mắc như :

Về nhận thức, mức độ tham gia của cấp ủy các cấp, các cơ quan, đơn vị, đặc biệt là người đứng đầu còn hạn chế, chưa quan tâm, chủ động, tích cực triển khai các ứng dụng CNTT, chưa xác định chuyển đổi số là công cụ lõi để nâng cao hiệu quả hoạt động trong xu hướng tinh giản biên chế như hiện nay. Việc triển khai dịch vụ công trực tuyến còn hạn chế, tỷ lệ hồ sơ trực tuyến tại một số cơ quan, đơn vị giá trị thấp. Các ứng dụng mang tính chất nền tảng, phần mềm Quản lý nhà nước và CSDL chuyên ngành triển khai đến các sở ngành chưa được quan tâm sử dụng nên chưa phát huy hiệu quả, ít phát sinh dữ liệu.

Về chính sách, chính sách thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) chưa có hướng dẫn cụ thể; các văn bản pháp luật đã ban hành trước đây chưa thay đổi kịp, trở thành rào cản, điểm nghẽn trong triển khai chuyển đổi số; định mức chi phí tư vấn lập dự án/ hồ sơ thiết kế CNTT quá thấp, khó khăn trong lựa chọn đơn vị tư vấn đủ năng lực...

Về hạ tầng, hạ tầng CNTT thành phố đã được đầu tư gần 10 năm, đến nay một số thiết bị đã hết hạn, không còn sản xuất. Tuy nhiên, Dự án đầu tư, nâng cấp hạ tầng Trung tâm dữ liệu đang triển khai thi công, chưa đưa vào sử dụng nên năng lực tính toán, lưu trữ chưa theo kịp nhu cầu ứng dụng của các cơ quan đơn vị.

Về dữ liệu số, việc kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan Trung ương và địa phương còn mang tính thứ bậc, chưa đảm bảo nguyên tắc đồng đẳng. Các CSDL nền quốc gia, các ứng dụng của một số Bộ ngành Trung ương được triển khai ở địa phương, do địa phương tạo lập, nhập liệu nhưng đóng kín, chưa chia sẻ lại cho địa phương sử dụng. Dữ liệu còn rời rạc, tính khả dụng thấp, chưa được kết nối, liên thông, chia sẻ sử dụng chung. CSDL quốc gia về dân cư còn thiếu nhiều trường thông tin, dữ liệu hoặc dữ liệu chưa chính xác (tình trạng hôn nhân, thành viên hộ gia đình, mối quan hệ, lịch sử cư trú...); chưa cung cấp đầy đủ dịch vụ khai thác CSDL quốc gia về dân cư (như cung cấp dữ liệu hình ảnh CCCD, danh sách dữ liệu dân cư phục vụ thống kê, báo cáo tổng hợp,...), chưa đảm bảo để địa phương khai thác, sử dụng trong cung cấp dịch vụ công, giải quyết các TTHC có yêu cầu thành phần sổ hộ khẩu/sổ tạm trú/CMND/CCCD.

Về nguồn nhân lực CNTT trong các cơ quan thành phố mỏng, chưa đảm bảo năng lực, trình độ trong tham mưu, triển khai, vận hành các hệ thống ứng dụng thông minh. Tình trạng cán bộ CNTT tại cơ quan thành phố thôi việc có xu hướng tăng cao. Việc thu hút, tuyển dụng nhân lực CNTT vào khu vực công ngày càng khó khăn do cạnh tranh so với khu vực tư nhân.

  1. Giải pháp đẩy mạnh chuyển đổi số trong bộ máy chính quyền thành phố Đà Nẵng hiện nay

Chuyển đổi số trong bộ máy chính quyền đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu suất, tính minh bạch, và khả năng phục vụ của thành phố; đồng thời cũng giúp tạo ra một môi trường làm việc hiệu quả hơn và tương tác tốt hơn  giữa nhà nước với người dân, doanh nghiệp. Để khắc phục những tồn tại, hạn chế, phát huy tối đa những lợi thế, tiềm năng trong quá trình thực hiện chuyển đổi số trong bộ máy chính quyền thành phố Đà Nẵng, cần tập trung vào các giải pháp sau:

Thứ nhất, chuyển đổi nhận thức (nhận thức số). Cấp ủy các cấp, các cơ quan, đơn vị, địa phương tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cán bộ, công chức, viên chức và người dân, doanh nghiệp trên địa bàn thành phố để thống nhất từ nhận thức đến hành động. Đồng thời, nêu cao trách nhiệm của “người đứng đầu” trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động chuyển đổi số; xác định chuyển đổi số là nhiệm vụ trọng tâm, lâu dài và xuyên suốt của cơ quan, đơn vị, địa phương; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả cung ứng dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Thứ hai, thực hiện rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh các mối quan hệ mới phát sinh trong quá trình chuyển đổi số; xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp công nghệ số, khuyến khích đổi mới, sáng tạo; thu hút các doanh nghiệp công nghệ số đầu tư vào thành phố; triển khai thống nhất sử dụng các nền tảng số trong phạm vi toàn thành phố.

Thứ ba, phát triển hạ tầng số, nền tảng số. Tập trung phát triển hạ tầng số, nền tảng số trên cơ sở kế thừa, phát triển từ các nền tảng hạ tầng sẵn có; xác định rõ mục tiêu, ưu tiên bố trí nguồn lực để tập trung thực hiện đồng bộ nền tảng hạ tầng công nghệ thông tin trọng yếu, như: hạ tầng băng thông rộng, hạ tầng Internet vạn vật (IoT); hạ tầng điện toán đám mây; ứng dụng địa chỉ giao thức Internet thế hệ mới (IPv6) Trung tâm tích hợp dữ liệu, Trung tâm điều hành thông minh, Trung tâm giám sát an toàn thông tin; nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu toàn thành phố; Hệ thống Trung tâm giám sát, điều hành an toàn, an ninh mạng; nền tảng thanh toán trực tuyến, di động…

Thứ tư, xây dựng, phát triển dữ liệu số. Áp dụng công nghệ phân tích dữ liệu lớn (Big Data Analytics), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo/thực tế tăng cường (VR/AR),... để thực hiện chuyển đổi số toàn diện các mặt công tác chỉ đạo, điều hành của cơ quan nhà nước. Hoàn thiện và khai thác hiệu quả Hệ thống CSDL thanh tra, khiếu nại, tố cáo của thành phố, kết nối, tích hợp với CSDL và phần mềm quản lý nhà nước chuyên ngành của các sở, ban, ngành và các hệ thống ứng dụng của các cơ quan Trung ương trên địa bàn, đảm bảo liên thông trong kết nối giữa cơ quan Đảng và chính quyền để phục vụ kiểm tra, giải quyết đơn thư của tổ chức, công dân, thống kê báo cáo thông qua môi trường số.

Thứ năm, phát triển ứng dụng số hóa. Xây dựng Hệ thống phân tích dữ liệu và mô phỏng về các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, các hoạt động của đô thị, kết hợp trình diễn hiển thị (Dashboard) bằng biểu đồ, sơ đồ để phục vụ sự chỉ đạo, điều hành nhanh chóng, kịp thời, hỗ trợ ra quyết định dựa trên dữ liệu của cơ quan thành phố. Phát triển và khai thác tốt Trung tâm giám sát điều hành thành phố thông minh (Intelligent Operation Center - IOC) để thực hiện quản lý, điều hành tập trung, đa nhiệm trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, đô thị. Nâng cấp, hoàn thiện các Trung tâm điều hành (OC) chuyên ngành như giao thông, an ninh, phòng cháy chữa cháy, môi trường, điện chiếu sáng, điện lực, cấp nước, phòng chống thiên tai... và hình thành các OC quận huyện; kết nối, tích hợp về Trung tâm IOC 74 thành phố. Triển khai ứng dụng giám sát cho Hội đồng, đại biểu HĐND phục vụ giám sát trong mô hình chính quyền đô thị.

Thứ sáu, phát triển nguồn nhân lực số. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, thu hút nguồn nhân lực công nghệ thông tin chất lượng, sẵn sàng tham gia vào quá trình chuyển đổi số. Chủ động liên kết với các viện, trường, trung tâm nghiên cứu và các đối tác trong và ngoài nước, đẩy mạnh hợp tác với Đại học Đà Nẵng, Duy Tân, FPT,... để đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quá trình chuyển đổi số. Đặc biệt, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình thực hiện chuyển đổi số ở Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ, đặt ra yêu cầu bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng về quản trị hiện đại, thích ứng với chuyển đổi số cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của chính quyền thành phố.

ThS Trương Cao Huyền Trang

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Báo cáo số 340/BC-UBND ngày 15 tháng 11 năm 2022 của UBND thành phố về Kết quả 03 năm triển khai thực hiện Đề án “Xây dựng thành phố thông minh tại thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2018-2025, định hướng đến năm 2030”

​2. Báo cáo số 168/BC-UBND ngày 28 tháng 6 năm 2023 của UBND thành phố về Tình hình triển khai thực hiện Đề án Chuyển đổi số trên địa bàn thành phố gắn với dự án thành phố thông minh

​3. Chính phủ: Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030, Nghị quyết số 76 / NĐ - CP ngày 15-7-2021, 2021.

​4. Thủ tướng chính phủ: Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Quyết định số 749 /QĐ - TTg ngày 3-6-2020, 2020

  • Tags: