Quyền con người, đặc biệt là quyền dân chủ luôn được pháp luật bảo vệ tôn trọng ở mọi lúc, mọi nơi, đó là quyền thiêng liêng cao quý nhất. Bài viết làm rõ vai trò của việc hoàn thiện pháp luật về quyền con người, chỉ rõ những kết quả đạt được và chưa đạt được của việc thực thi pháp luật về quyền dân chủ của con người trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, từ đó đề xuất một số nội dung, biện pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con người trong thời gian tiếp tới được tốt hơn.
Ảnh minh họa
1. Vai trò của pháp luật về bảo đảm quyền dân chủ của con người trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Trong tác phẩm “Luận cương về Phoi ơ bắc” C.Mác đã khẳng định: “Bản chất con người không phải là cái gì cố hữu trừu tượng khó hiểu, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội”[1]. Luận điểm trên đã nói lên rằng, trong cuộc sống, cũng như trong công việc của mỗi con người cần đặt trong mối quan hệ với cộng đồng xã hội, đó là sự giao lưu, hợp tác, mở rộng, có như vậy, con người mới tồn tại, phát triển được. Ngay từ khi con người sinh ra đã được hưởng những quyền có tính “bẩm sinh” vốn có của mình, được sống, được chăm sóc, được mưu cầu hạnh phúc, nhưng quyền đó sẽ không thể tồn tại được nếu như không có pháp luật bảo vệ. Vì vậy, pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm quyền cho con người, nhất là quyền dân chủ khi con người đến tuổi trưởng thành, tham gia vào các hoạt động xã hội khác nhau, được biểu hiện cụ thể ở việc thừa nhận, củng cố và từng bước hoàn thiện quyền con người. Để bảo đảm quyền cho con người, pháp luật đưa ra hệ thống những quy tắc, quy định, điều cấm để điều chỉnh hành vi của con người, yêu cầu con người phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Quyền của con người, nhất là quyền về dân chủ được pháp luật thừa nhận là thiêng liêng, cao quý không một ai có thể xâm phạm một cách tuỳ tiện và được pháp luật bảo vệ thông qua các biện pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế, xử lý theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam. Đó là quyền mang tính tối thượng, ổn định, khó có thể thay đổi trong một khoảng thời gian nhất định. Tại Điều 50 của Hiến pháp năm 1992 khẳng định: Quyền con người được quy định trong Hiến pháp và luật - là những văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, nó buộc mọi người phải tôn trọng, phục tùng. Điều 20 của Hiến pháp năm 2013 cũng nhấn mạnh: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Nhờ đó, quyền của con người đã trở thành giá trị chung của nhân loại, được mọi người tôn trọng và bảo vệ, từ chỗ quyền con người chỉ là những ý tưởng, ý niệm trong tiềm thức dần trở thành hệ thống những quan điểm, tư tưởng, học thuyết, bộ luật được cả cộng đồng quốc tế, không phân biệt màu da, vùng lãnh thổ, địa vị sang hèn. “Chỉ có thông qua pháp luật quyền con người mới trở thành ý chí và mục tiêu hành động chung của toàn xã hội, có tính bắt buộc chung với toàn xã hội”[2]. Nước ta đang hướng đến mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vì vậy, việc bảo đảm quyền con người bằng pháp luật sẽ cho phép khai thác tốt nguồn lực con người để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở cửa, hội nhập quốc tế, đưa nước ta có vị thế, uy tín ngày càng cao trên trường quốc tế.
2. Thực trạng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền dân chủ của con người trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay
Trong thời gian vừa qua, đặc biệt sau gần 35 năm đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh tế - xã hội của nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các mặt, các lĩnh vực. Đảng, Nhà nước và các cơ quan, ban, ngành liên quan đã có nhiều cơ chế, chính sách để động viên, khuyến khích con người làm giàu chính đáng, đặc biệt là hệ thống luật pháp ở Việt Nam từng bước được hoàn thiện để bảo đảm quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của con người với từng hoạt động, lĩnh vực mà mình tham gia. Tính từ năm 1986 đến nay, hàng chục nghìn văn bản luật và dưới luật được ban hành, trong đó có những đạo luật trực tiếp liên quan tới lĩnh vực quyền con người như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Tiếp công dân, Luật Tiếp cận thông tin, Luật Đặc xá, Luật Trẻ em, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Giáo dục, Luật Bảo hiểm xã hội… Sau khi Hiến pháp năm 2013 được thông qua, hệ thống pháp luật về quyền con người đã được đẩy mạnh với hơn 100 luật, bộ luật được ban hành mới, điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước, yêu cầu, nhiệm vụ của xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế hiện nay. Gần đây nhất, ngày 20/11/2019, Quốc Hội đã thông qua Bộ luật Lao động (sửa đổi) với nhiều quy định mới bảo đảm quyền lợi, nghĩa vụ cho người lao động, như tăng tuổi nghỉ hưu cho người lao động, ngày Quốc khánh được nghỉ hai ngày, không còn hợp đồng lao động theo thời vụ… Theo Báo cáo của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) năm 2018, Việt Nam thuộc nhóm trung bình cao về chỉ số phát triển con người (thứ 116/189 quốc gia) và chỉ số bình đẳng giới (đứng thứ 67/160 quốc gia). Theo một báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam tiếp tục giảm, đặc biệt là trong các dân tộc thiểu số. Nhà nước ta có rất nhiều biện pháp cụ thể để bảo đảm quyền của người dân trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội. Người dân tham gia trực tiếp và thụ hưởng quyền qua các hình thức như: Tham gia qua Quốc hội, qua các đoàn thể chính trị - xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng. Ví dụ quyền dân sự, quyền được tiếp cận thông tin, chúng ta cũng thấy rằng, ngày nay với điều kiện kinh tế phát triển hơn thì khả năng người dân tiếp cận thông tin tăng lên rất nhiều. Quốc hội cũng đổi mới phương thức hoạt động để làm sao phản ánh đầy đủ tiếng nói của người dân, thực hiện tốt hơn vai trò pháp luật, pháp luật có hiệu quả hơn, thực hiện chức năng giám sát.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được thì việc hoàn thiện pháp luật về quyền dân chủ của con người vẫn còn một số hạn chế đó là: Nhận thức, ý thức của người dân về quyền công dân chưa thực sự đầy đủ; một số tổ chức, cá nhân lợi dụng quyền tự do, dân chủ của con người để chống phá cách mạng Việt Nam, xuyên tạc, phủ nhận thành tựu về thực hành quyền dân chủ của Đảng, Nhà nước ta trong suốt thời gian qua; một số điều luật chưa thực sự mang tính giáo dục, răn đe cao đối với một số loại tội phạm trong xã hội, như hành hung phụ nữ, con cái ngược đãi với cha mẹ… Trong bối cảnh hội nhập, mở cửa quốc tế hiện nay, sự hiểu biết về pháp luật của con người được coi là nhân tố quan trọng quyết định đến sự thành công trong công việc, cũng như cuộc sống; nhất là trước tác động của Cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 phát triển, nhiều luật mới ra đời, có nhiều người chưa nắm được, hoặc nắm không chắc, dẫn đến quá trình tổ chức thực hiện còn lúng túng, vi phạm mà không biết… vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền dân chủ con người trong bối cảnh hội nhập quốc tế đặt ra rất cấp bách vừa mang tính cụ thể trước mắt, vừa mang tính chiến lược cơ bản lâu dài.
3. Một số biện pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền dân chủ của con người trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các cơ quan, ban, ngành và đội ngũ cán bộ làm công tác soạn thảo, ban hành pháp luật
Đây là biện pháp rất quan trọng, tưởng như đơn gian nhưng lại có vai trò vô cùng quan trọng đối với quá trình hoàn thiện pháp luật về quyền của con người. Đây chính là lực lượng tham mưu, đề xuất, soạn thảo, thông qua và ban hành pháp luật về quyền của con người. Nếu đội ngũ cán bộ làm công tác về pháp luật có trình độ, hiểu biết, cọ sát với hoạt động thực tiễn, nắm bắt được xu thế phát triển của thời đại đặt ra thì việc soạn thảo, ban hành pháp luật về quyền của con người được thể hiện đầy đủ sâu sắc trên các mặt, các lĩnh vực. Ngược lại, nếu đội ngũ cán bộ làm công tác về pháp luật không nắm được những đòi hỏi của thực tiễn đặt ra thì việc tham mưu, đề xuất sẽ không đúng, trúng, gây ra những tranh cãi, tạo kẽ hỡ cho kẻ xấu lợi dụng để trục lợi cá nhân, vi phạm pháp luật. Theo đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người làm công tác soạn thảo, ban hành pháp luật liên quan đến quyền con người cần lựa chọn những người đúng chuyên môn về pháp luật, có phẩm chất đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, vì sự ổn định, phát triển của đất nước, thực sự tôn trọng quyền của con người; biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các luật sư, các tầng lớp nhân dân; nắm bắt được xu thế vận động, biến đổi, phát triển của xã hội, đưa ra những tình huống, dự báo sát với đặc điểm, tình hình của từng ngành, lĩnh vực, từng đối tượng khác nhau; tăng cường công tác phối kết hợp giữa các bộ phận, lực lượng liên quan để thảo luận, phân tích từ nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau, bảo đảm cho quá trình thực thi pháp luật về quyền con người được phát huy một cách tốt nhất.
Hai là, thường xuyên tiến hành rà soát, bổ sung, điều chỉnh những đạo luật hiện hành để khắc phục hạn chế về mặt pháp lý
Một đạo luật đưa ra ngay từ đầu chưa phải đã hoàn chỉnh, trải qua thời gian cọ sát với hoạt động thực tiễn, từ đó nảy sinh những vấn đề cần phải điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Xã hội ngày càng phát triển, đặc biệt là những ảnh hưởng từ bên ngoài đến đời sống của các tầng lớp nhân dân, xuất hiện nhiều tình huống, sự việc mới nảy sinh, trong khi đó một số đạo luật đã không còn phù hợp nữa, cần phải có sự điều chỉnh, thậm trí là phải thay đổi để điều chỉnh thái độ, hành vi, ứng xử của con người. Theo đó, đội ngũ những người làm công tác soạn thảo, xây dựng pháp luật cần nghiên cứu, xem xét thật kỹ lưỡng từng luật, từng mục, chương, điều xem có còn phù hợp không, nếu phù hợp thì bổ sung thêm những yếu tố gì, nếu chưa phù hợp, hoặc không phù hợp nữa đề nghị bãi bỏ, ban hành luật mới; việc rà soát, bổ sung, điều chỉnh những đạo luật hiện hành nhằm mục đích phục vụ tối thượng quyền của con người, nhất là quyền về dân chủ, do đó, phải bảo đảm tính chính xác trong câu chữ, dễ hiểu, dễ nhớ; căn cứ vào từng đối tượng cụ thể, tính chất, mức độ của từng ngành, lĩnh vực hoạt động có thể bổ sung, điều chỉnh hoặc giữ nguyên những nội dung, đạo luật gốc ban đầu; phải nghiên cứu, cân nhắc, thảo luận thật kỹ và thận trọng trong quá trình sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh, ban hành, trên cơ sở, nguyên tắc truyền thống, đạo lý của dân tộc, có những việc pháp luật không cấm nhưng đạo lý, truyền thống của dân tộc không cho phép, thì pháp luật cũng phải căn cứ vào đó để soạn thảo, ban hành, điều chỉnh. Pháp luật được xây dựng, soạn thảo, ban hành cũng phải trên cơ sở truyền thống, đạo lý của dân tộc, chứ không phải theo ý muốn chủ quan của mình, đưa ra những luật, quy định trái với đạo lý, truyền thống dân tộc. Bất kỳ luật nào đưa ra phải nhận được sự đồng tình, ủng hộ của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, đem lại sự ổn định, phát triển cho đất nước, đó mới là thành công cho những người soạn thảo, ban hành pháp luật.
Ba là, tăng cường các biện pháp giáo dục trong mỗi người dân, cán bộ công chức trong hệ thống chính trị về quyền con người
Để hệ thống pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống, được mọi người đón nhận, trở thành thói quen sinh hoạt trong đời sống của con người thì công tác tuyên truyền, giáo dục cần đặc biệt quan tâm. Nếu không làm tốt việc tuyên truyền, giáo dục những luật mới được ban hành thì các tầng lớp nhân dân sẽ không biết được điều luật nào là vừa mới điểu chỉnh, bổ sung, điều luật nào vẫn giữ nguyên nội dung, điều luật nào là mới hoàn toàn và những nội dung cụ thể của từng điều luật quy định như thế nào. Khi các tầng lớp nhân dân không biết thì dẫn đến những vi phạm trái pháp luật, hạn chế phát huy được quyền con người trong tham gia vào các hoạt động kinh tế, xã hội khác nhau. Theo đó, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở phải tăng cường các biện pháp giáo dục trong mỗi người dân, cán bộ, công chức trong toàn hệ thống chính trị về quyền con người, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ít người cần phải tuyên truyền sâu rộng hơn; đa dạng hoá các nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục pháp luật về quyền con người, quyền công dân đến các đối tượng trong xã hội, như: Sân khấu hoá, kịch hoá, biểu diễn văn hoá nghệ thuật, truyền thanh ở từng địa phương, cuộc thi tìm hiểu về pháp luật, phát động những phong trào thi đua…; nhân rộng điển hình tiên tiến đối với những tập thể, cá nhân làm tốt việc giáo dục pháp luật đến nhân dân, cán bộ công chức trong toàn hệ thống chính trị xã hội… trong quá trình tuyên truyền, giáo dục phải kiên trì, làm thường xuyên, liên tục như cơm ăn, nước uống hàng ngày, không thể một lúc, thời điểm tiến hành ngay, xong tất cả các điều luật được; vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp giáo dục pháp luật cho các đối tượng trong xã hội, phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ ở mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương đặt ra.
Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế, sự tham gia của Việt Nam vào các thể chế quốc tế về quyền con người
Thông qua hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế mà Việt Nam chúng ta có thể học hỏi được kinh nghiệm xây dựng, soạn thảo, ban hành luật về quyền con người của nhiều quốc gia. Các nước phương Tây kinh nghiệm ban hành các điều luật về quyền con người hơn ta rất nhiều, vì vậy, thông qua các chương trình, hội thảo, gặp gỡ, trao đổi giữa đại diện các cơ quan, ban, ngành mà tăng lên tính chính xác, hiệu quả của mỗi một đạo luật về quyền con người khi được ban hành. Hoạt động đối thoại, hợp tác về quyền con người đã được thể hiện thông qua các diễn đàn quốc tế, các hội nghị, hội thảo; qua đó chúng ta đã tuyên truyền về thành tựu bảo đảm quyền con người của Việt Nam, đặc biệt là trong các lĩnh vực dân tộc, tôn giáo nhằm bảo vệ các quan điểm, giá trị về nhân quyền của Đảng và Nhà nước ta; tăng cường sự hiểu biết, khắc phục và thu hẹp những vấn đề còn khác biệt, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước, các tổ chức quốc tế, nhân dân thế giới và cộng đồng người Việt định cư ở nước ngoài trên cơ sở đảm bảo tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, không can thiệp và công việc nội bộ của nhau, kiên quyết phê phán, vạch trần những luận điệu sai trái, vu cáo, xuyên tạc về tình hình nhân quyền ở nước ta; chủ động hơn về chiến lược trong quá trình tham gia vào một số cơ chế, thủ tục nhân quyền của Liên Hợp Quốc, khu vực Đông Nam Á (ASEAN), đối thoại về quyền con người, phát triển các hình thức hợp tác quốc tế đa dạng về giáo dục nhân quyền.
Quyền con người là thiêng liêng cao quý bất khả xâm phạm, có từ lâu trong lịch sử, dù ở chỗ này hay chỗ khác, quốc gia này hay quốc gia khác quyền con người có lúc bị chà đạp nhưng xu hướng chung vẫn là bảo vệ quyền con quyền, lên án những hành động xâm phạm đến quyền của con người. Trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, quyền con người ngày càng được hoàn thiện, bảo đảm về mặt luật pháp. Đối với nước ta, quyền con người được đặt ở vị trí trung tâm của lịch sử, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng, Nhà nước ta không ngừng hoàn thiện pháp luật về quyền con người, bảo đảm cho con người phát triển toàn diện về mọi mặt, phục vụ hữu ích cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện khát vọng dân tộc hùng cường, hạnh phúc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
ThS. Nguyễn Tú Anh
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
[1] C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995,t.3, tr.11.
[2] Nguyễn Văn mạnh (2000), Quyền chính trị của phụ nữ trong công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữa và trong pháp luật Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, tháng 3/2000.