Một số vấn đề dân chủ và pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam

Ngày nay, dân chủ không chỉ giới hạn trong lĩnh vực chính trị hay pháp luật, mà thể hiện ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa công dân với Nhà nước, giữa các tổ chức, thiế

Ngày nay, dân chủ không chỉ giới hạn trong lĩnh vực chính trị hay pháp luật, mà thể hiện ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa công dân với Nhà nước, giữa các tổ chức, thiết chế xã hội cho đến quan hệ giữa các quốc gia trên trường quốc tế. Để những giá trị của dân chủ phát huy vai trò động lực cho sự phát triển, khái niệm dân chủ cần được nhận diện và thể chế hóa thành những quy định đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam.

Dân chủ và các loại hình cơ sở

Khái quát về dân chủ

Dân chủ là “hình thức tổ chức thiết chế chính trị xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế nhất định…”1. Vì sao phải phát huy dân chủ? Vì sao người có ưu thế về kinh nghiệm, tri thức hoặc quyền lực không áp đặt ý kiến của mình cho những người còn lại? Vì họ biết rằng, tri thức có giới hạn và khiếm khuyết về bản chất.

Sự giới hạn đó không nằm ở sự yếu kém cá nhân, mà thuộc về bản chất của tri thức do sự bất toàn của nó và những biến động của thực tiễn. Để khắc phục, phải có nguyên lý khác, là nguyên lý bổ sung, được phát biểu ngắn gọn: đối lập là bổ trợ. Nói cách khác, “đối lập không phải là triệt tiêu, mà bổ trợ cho nhau”2. Như thế, con người phải cùng thực hành một nguyên tắc đó là: đối lập và khác biệt cần phải được tôn trọng vì chúng là nguồn bổ trợ cho tri thức và lý trí của cá nhân, tập thể.

Lịch sử nhân loại đã tồn tại nhiều hình thức dân chủ và cho dù có những hình thức khác biệt nhau, song đều dựa trên những quan niệm và quy chuẩn chung như: bầu cử tự do và công bằng, quản lý nhà nước bằng ý chí của mọi công dân; sự ý thức và khả năng thực tế của các công dân về quyền hạn và nghĩa vụ của mình.Tuy nhiên, với mỗi khu vực, mỗi cộng đồng, quốc gia lại có những đặc thù về văn hóa, xã hội.

Chẳng hạn, sẽ không thích hợp nếu đem toàn bộ những thước đo của phương Tây để áp dụng vào phương Đông. Có thể, trong khi các nước phương Tây ra sức đấu tranh để “bảo vệ” những quyền lợi của dân chúng Trung Quốc thì nhiều khi người dân ở đó lại không cần thiết những quyền đó. Ví dụ về vấn đề quyền trẻ em: ở Hoa Kỳ, trẻ em có thể kiện bố mẹ ra tòa, nhưng ở Trung Quốc đó có thể là hành động phi đạo đức. Ở nhiều nước phương Tây, những biểu tượng của văn hóa phồn thực có thể được tôn vinh bằng phương thức văn minh nơi công cộng nhưng ở một số quốc gia khác có thể bị coi là xúc phạm cộng đồng.

Vì vậy, cần phải nhìn nhận dân chủ như một khái niệm mang tính tương đối, có tính chất lịch sử và gắn liền với truyền thống văn hóa. Hiện nay, việc thực hành dân chủ của các quốc gia châu Á đang đối diện với những thách thức chung, như:

– Trình độ dân trí: châu Á từng là nơi có nền văn minh phát triển cao trong phần lớn lịch sử nhân loại nhưng đã bị chậm lại trong vài thế kỷ gần đây. Trình độ học vấn của dân cư không thấp song trình độ giác ngộ về những quyền và trách nhiệm của số đông lại có vấn đề. Nguyên nhân cơ bản là do thiếu thông tin và nhất là bởi những khó khăn triền miên về kinh tế khiến con người luẩn quẩn qua nhiều thế hệ vì kiếm sống, khó có điều kiện để ý thức về quyền và trách nhiệm của mình.

– Truyền thống sở hữu và văn hóa gia trưởng: “Phương thức sản xuất châu Á”3 là điểm đặc thù. Ở các quốc gia nông nghiệp, truyền thống ruộng, đất thuộc về sở hữu của Nhà nước đã bảo đảm cho sự tồn tại lâu dài hoặc những tàn dư của chủ nghĩa phong kiến châu Á và phương thức quản lý tập quyền của tầng lớp lãnh đạo. Truyền thống gia trưởng ăn sâu vào tâm thức xã hội đến mức trở thành quy tắc ứng xử được chấp nhận như lẽ đương nhiên. Chính văn hóa gia trưởng hỗ trợ cho nguyên tắc tôn sùng, vâng lời người đứng đầu nhóm, tổ chức và cộng đồng. Vì thế, khác với phương Tây, cư dân phương Đông có thể chấp nhận tương đối dễ dàng và duy trì lâu dài các hình thức độc quyền.

Là một quốc gia khu vực Đông Nam Á, Việt Nam cũng tồn tại những đặc điểm trên, đồng thời mang những dấu ấn đa chiều về dân chủ. Tuy nhiên, như đã phân tích, dù có những khác biệt về trình độ phát triển và văn hóa, vấn đề dân chủ ở Việt Nam có những đặc thù song vẫn phải hướng tới những tiêu chuẩn, giá trị phổ quát.

Các loại hình cơ sở

Bất kỳ một cá nhân nào trong xã hội cũng tồn tại trong một tổ chức nhất định. Một tổ chức, xét theo hệ thống cấu trúc, bao gồm hệ thống cấu trúc từ nhỏ đến lớn. Những cấu trúc nhỏ nhất trong một hệ thống có tư cách như một chỉnh thể tương đối hoàn chỉnh, độc lập, là nền tảng cho toàn bộ hệ thống được gọi là cơ sở. Cơ sở là “tế bào” của hệ thống

Bất cứ một công dân, một thành viên nào của tổ chức cũng đều gắn bó và sinh sống, lao động, học tập ở một cơ sở nhất định trong hệ thống. Trong cấu trúc của hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, dân cư ở cấp xã, các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức – chính là các đơn vị cơ sở, nơi diễn ra các quan hệ cốt yếu, nhiều mặt giữa các tầng lớp nhân dân.

Nói đến dân chủ cơ sở (DCCS) là nói đến vị thế của người dân ở cơ sở, trước hết và chủ yếu là các tầng lớp người lao động đang hằng ngày làm ra của cải vật chất và tinh thần để bảo đảm cho xã hội tồn tại, phát triển. Vì vậy, thực hiện DCCS chính là bảo đảm và nâng cao vị thế của người dân, làm nền tảng và động lực phát triển trực tiếp của xã hội; là giải quyết đúng đắn vấn đề dân chủ đang được đặt ra: mở rộng dân chủ và phát huy cao độ quyền làm chủ trực tiếp của người dân từ cơ sở, đẩy mạnh chiều sâu dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

 Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở trong thời kỳ đổi mới

Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của dân chủ và chú trọng thực hiện dân chủ từ cơ sở. Tinh thần ấy được thể hiện cụ thể và cô đọng trong Tuyên ngôn Độc lập. Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức sâu sắc thêm: vấn đề dân chủ trước tiên và trọng yếu là xuất phát từ cơ sở.

Hội nghị sơ kết thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở 6 tháng đầu năm, triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2019. Đồng chí Trương Thị Mai phát biểu kết luận Hội nghị (Ảnh: Mai Khôi, http://danvan.vn).

Dân chủ luôn đi liền với cơ chế bảo đảm dân chủ, mà cơ chế này phải được luật hóa. Theo nghĩa rộng, pháp luật về thực hiện DCCS có phạm vi điều chỉnh gồm: vấn đề thực hiện dân chủ của người dân ở địa phương – cấp xã; trong cơ quan hành chính nhà nước, trong các đơn vị sự nghiệp công lập; trong các doanh nghiệp, đơn vị có sử dụng lao động 4.

Có thể thấy, quan điểm trên được khẳng định ở đạo luật gốc là Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013) và được thể chế hóa ở các luật quan trọng. Đồng thời, được điều chỉnh trực tiếp bằng các văn bản pháp luật về thực hiện DCCS. Cũng với tinh thần đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) ra Chỉ thị số 69/CT/TW ngày 20/6/1996 yêu cầu sớm nghiên cứu thể chế hóa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Tiếp theo, ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ (QCDC) ở cơ sở, khẳng định: khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Chủ trương này được Quốc hội thể chế bằng Nghị quyết số 45/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 26/02/1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ. Chính phủ cũng triển khai hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi hành đối với từng loại hình cơ sở:

Các văn bản hướng dẫn thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn được ban hành trong giai đoạn này khá đầy đủ và hệ thống, nhưNghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Chỉ thị số 22/1998/CT- TTg ngày 15/5/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai QCDC ở xã, phường, thị trấn; Thông tư số 03/1998/TT- TCCP ngày 06/7/1998 về hướng dẫn áp dụng Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường và thị trấn…

Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, căn cứ vào Nghị quyết số 17/NQ -TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn và Chỉ thị số 10 – CT/TW ngày 28/3/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở, Chính phủ đã có Nghị định số 79/2003/NĐ – CP ngày 07/7/2003 ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, thay thế Nghị định số 29/1998/CP ngày 11/5/1998. Sau đó, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 12/2004/TT – BNV ngày 20/02/2004 hướng dẫn thực hiện QCDC ở xã, phường, thị trấn.

Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định: phát huy dân chủ là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với tiến trình phát triển nước ta. Do đó, cần có một văn bản pháp luật cao hơn nghị định để điều chỉnh vấn đề thực hiện dân chủ xã, phường, thị trấn. Trên cơ sở đó, ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL- UBTVQH11 thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Để cụ thể hóa nội dung của Pháp lệnh, Chính phủ đã phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT – CP-UBTWMTTQVN ngày 17/4/2008 về hướng dẫn một số điều của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

QCDC ở cơ sở trong hoạt động của cơ quan, đơn vị và các loại hình kinh tế:

Đối với khối cơ quan nhà nước, các văn bản hướng dẫn thực hiện dân chủ ở cơ sở được thể hiện ở Nghị định số 71/1998/NĐ – CP ngày 08/9/1998 của Chính phủ quy định về Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ quan hành chính, Chỉ thị số 38/1998/CT-TTg ngày 11/11/1998 của Thủ tướng Chính phủ về triển khai Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan; Thông tư liên tịch 09/1998/TTLT-TCCP-LĐLĐ ngày 04/12/1998 hướng dẫn về tổ chức và nội dung hội nghị cán bộ trong cơ quan, Quyết định số 11/1998/QĐ-TCCP-CCVC của Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ ngày 05/12/1998 kèm theo Quy chế đánh giá công chức hằng năm.

Đối với các loại hình đơn vị kinh tế cũng có các văn bản điều chỉnh hoạt động này, như: Nghị định số 07/1999/NĐ- CP ngày 13/02/1999 của Chính phủ quy định về Quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước và được bổ sung thêm Nghị định số 87/2007/NĐ – CP ngày 28/5/2007 ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.

Đối với khối cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập, cho đến nay vẫn thực hiện theo Nghị định số 04/2015/NĐ – CP ngày 09/01/2015 về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập (thay thế Nghị định số 71/1998/NĐ – CP ngày 08/9/1998 của Chính phủ về ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan).

Qua hơn 20 năm triển khai chính sách, pháp luật về thực hiện DCCS (1998 – 2019) đã đem lại nhiều chuyển biến tích cực trong đời sống chính trị – xã hội của Việt Nam, nhất là ở cấp cơ sở. Có thể thấy, pháp luật hiện hành về thực hiện dân chủ ở cơ sở quy định khá đầy đủ, chi tiết về các nội dung: trách nhiệm của người đứng đầu trong việc công khai, minh bạch các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của cơ quan, đơn vị đến người lao động; trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc thực hiện dân chủ đối với người lao động theo đúng quy định của pháp luật; những vấn đề người dân được biết, được thực hiện, được quyết định bảo đảm quyền dân chủ của mình. Tuy nhiên, pháp luật về thực hiện DCCS đang bộc lộ những hạn chế nhất định, cần phải nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế cho phù hợp.

Hoàn thiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong bối cảnh mới

Tiến trình phát triển đất nước và hội nhập quốc tế của Việt Nam, về bản chất là quá trình dân chủ hóa xã hội ngày càng sâu rộng hơn. Tiến trình đó cũng là quá trình xây dựng và hoàn thiện không ngừng của pháp luật. Dân chủ càng cao thì pháp luật càng chặt chẽ, khoa học, do đó, quá trình hoàn thiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở hiện nay cần được quan tâm ở những khía cạnh cơ bản sau:

Thứ nhất, cần có hệ thống pháp luật về dân chủ ở cơ sở đồng bộ và đầy đủ. Cụ thể: (1) Trước mắt cần quan tâm và tập trung xây dựng một số bộ luật quan trọng như: Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở theo hướng: rà soát, đối chiếu giữa luật này với các luật có liên quan để quy định rõ những vấn đề, nội dung cấm công khai, cấm cung cấp thông tin thuộc bí mật nhà nước, liên quan đến an toàn, an ninh, chủ quyền quốc gia… (2) Xây dựng, hoàn thiện quy định pháp luật về lấy ý kiến nhân dân và phản biện xã hội. Phản biện có vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm và mở rộng dân chủ nên cần được ban hành ở tầm văn bản luật, như vậy, sẽ phù hợp với định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền trong giai đoạn mới. (3) Trong tương lai phải xây dựng một đạo luật về chế độ tự quản của người dân. Tự quản sẽ cho phép huy động mạnh mẽ quyền chủ động, sáng tạo của chính người dân trong việc giải quyết công việc chung của cộng đồng và giảm gánh nặng cho Nhà nước…

Thứ hai, kế thừa và phát huy những giá trị cổ truyền của hương ước. Sự trở lại của hương ước (hương ước mới) đang có vai trò quan trọng trong việc dân chủ hóa nông thôn. Hương ước thể hiện sự làm chủ của nhân dân lao động, mang dấu ấn văn hóa cộng đồng một cách rõ nét nhất. Để cho các quy ước, hương ước phù hợp với điều kiện của từng địa phương và dễ đi vào đời sống của người dân ở cơ sở, cần tránh hiện tượng hình thức, khó thực hiện, kém hiệu quả.

Dân chủ không tách rời dân trí và dân sinh, bởi dân trí và dân sinh là nền tảng để thực hành dân chủ ở cấp độ tương ứng. Đích cuối cùng của việc xây dựng và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở là thu hút quần chúng vào hoạt động chính trị, xây dựng Đảng, chính quyền và đoàn thể,

làm cho người dân có cuộc sống hạnh phúc và tiến bộ. Đem lại những ứng xử văn minh và lợi ích chính đáng cho người lao động là cách tốt nhất để các cơ quan, đơn vị, tổ chức làm cho nội dung dân chủ ở cơ sở có sức sống và mang lại những giá trị thiết thực.

Chú thích:
1. Từ điển bách khoa Việt Nam. NXB. Từ điển Bách khoa Việt Nam, 1995, tr. 653.
 2. Lịch sử không phải để lên bàn thờhttps://vietnamnet.vn, ngày 26/11/2013.
3. C. Mác. Góp phần phê phán chính trị kinh tế học. H. NXB Sự thật, 1964, tr. 7.
4. Hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, http://tcnn.vn, ngày 05/12/2018.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Bá Chiến. Cơ chế đảm bảo dân chủ trong hệ thống pháp luật Việt Nam. H. NXB Tư pháp, 2018.
2. Nguyễn Hồng Chuyên. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. H.NXB Tư pháp, 2016.
TS. Nguyễn Thị Vân Hà
Học viện Hành chính Quốc gia
  • Tags: