1.Khái quát quan điểm, chủ trương về Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến trước Đại hội XIII của Đảng
Công cuộc đổi mới của Việt Nam không chỉ đem lại những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, hội nhập quốc tế sâu rộng, mà quan trọng hơn là đưa ra những đổi mới trong tư duy lý luận, làm thay đổi nhận thức về con đường phát triển của đất nước, là tiền đề để Đảng ta đưa ra những chủ trương, quan điểm phát triển lớn trên các lĩnh vực. Trong các vấn đề đó, có việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, tuy không chính thức được đặt ra ngay từ buổi đầu thành lập Nhà nước công nông đầu tiên, nhưng tư tưởng pháp quyền, Nhà nước của dân, do dân và vì dân được đề cập khá sớm. Từ điều kiện thực tế của đất nước, kế thừa những tinh hoa, giá trị tiến bộ của nhân loại, đường lối đổi mới của Đảng đã định hình rõ những quan điểm lớn, sâu sắc và toàn diện về xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sau này là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, là xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân, đề cao vai trò của luật pháp. Điều này cũng chính là việc kế thừa tư tưởng của Hồ Chủ tịch về một Nhà nước kiểu mới ” Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”, cơ sở để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa sau này. Đây là bước tiến về nhận thức lý luận, thể hiện giá trị chung của nhân loại và đặc điểm riêng của chính thể CHXHCN Việt Nam, được thực hiện trong đời sống kinh tế, xã hội và chính trị của đất nước.
Trước Cương lĩnh 1991, trong các văn kiện của Đảng mới xác định chuyển từ Nhà nước chuyên chính vô sản sang Nhà nước có tính pháp quyền. Tuy nhiên, vào thời kỳ đó, nhận thức về tính pháp quyền của Nhà nước mới chỉ là bước đầu, còn hiểu Nhà nước pháp quyền là một kiểu hay hình thức Nhà nước hiện thực với một bộ máy nhà nước cụ thể, trên một số đặc điểm: ”Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”[1]. Rõ ràng rằng, những quan điểm trên mới đặt ra những định hướng ban đầu, chuyển từ Nhà nước chuyên chính vô sản sang xây dựng một Nhà nước kiểu mới, bước đầu với những giá trị căn bản của Nhà nước pháp quyền là phương thức tổ chức quyền lực nhà nước gắn liền, đặt trong tương quan với pháp luật, sự thượng tôn pháp luật với một tập hợp những yếu tố, nguyên tắc. Nhà nước pháp quyền là hiện tượng có tính phổ quát. Tuy nhiên, không có mô hình Nhà nước pháp quyền chung cho mọi quốc gia. Tất cả các Nhà nước được xây dựng, tổ chức theo hướng Nhà nước pháp quyền hoặc được gọi là Nhà nước pháp quyền ở đâu trên thế giới cũng đều có những nét riêng, không hoàn toàn giống nhau.
Quá trình phát triển nhận thức từ sau Cương lĩnh năm 1991 đến trước Cương lĩnh năm 2011, Hiến pháp năm 1992, Điều 12 ghi rõ:” Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật”. Trong văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ, khóa VII (năm 1994), Đảng ta chính thức đề cập việc xây dựng “ Nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân”. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện và đề cập trong các văn kiện quan trọng của Đảng giai đoạn này. Hội nghị TW 8, khóa VII(1995), là Hội nghị chuyên đề bàn về Nhà nước, và Đại hội VIII, ra Nghị quyết xác định “ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính”. Tiếp đó, Hội nghị TW 3, khóa VIII, cụ thể hóa nhận thức về Nhà nước pháp quyền: “ từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân”, chỉ rõ: “… trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc vừa phải làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm”.
Đại hội IX, (2001), chủ trương : “ Xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng”, là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân”, Đảng ta tiếp tục khẳng định:” Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Đại hội X, (2006), những giá trị đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được khẳng định, như: Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền. Cụ thể, như: “ xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Trên những quan điểm chung đó, theo tiến trình phát triển của đất nước, nhận thức về Nhà nước pháp quyền tiếp tục được làm rõ hơn ở nhiều khía cạnh, như: quan hệ giữa Nhà nước và công dân là quan hệ bình đẳng qua lại về quyền và nghĩa vụ pháp lý; tính dân chủ, nhân quyền bên cạnh tính hợp hiến và pháp trị; từng bước làm rõ khía cạnh quyền lực trong hoạt động của Nhà nước pháp quyền. Đặc điểm quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, là đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về vấn đề này được nêu trong Cương lĩnh (bổ sung và phát triển 2011), tiếp tục thể hiện bước phát triển mới nhận thức của Đảng, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991. Khẳng định, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, là một trong 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng, đó là: ” Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo[2]”, sau đó được cụ thể hóa một cách đầy đủ: ” Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh....Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”[3]. So với các giai đoạn trước, đến Cương lĩnh 2011, bước phát triển mới về nhận thức, quan điểm lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xác định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, mà còn mở rộng hơn về việc kiểm soát quyền lực. Tư tưởng này tiếp tục được cụ thể hóa trong Hiến pháp năm 2013, đặc biệt là tư tưởng Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế, biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa tệ quan liêu, tham nhũng..
Quá trình phát triển nhận thức từ sau Cương lĩnh năm 2011. Ở Việt Nam, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự thống nhất giữa tính phổ quát và tính đặc thù, là Nhà nước dân chủ và bảo đảm thực thi dân chủ; quyền con người và quyền công dân được tôn trọng, quyền lợi gắn với kỷ cương, trách nhiệm. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, quyền lực bị giới hạn và kiểm soát. Đồng thời nghiêm chỉnh thực thi các cam kết quốc tế.
Xét về bản chất, nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn từ 2011, là bước phát triển mạnh mẽ về lý luận, phản ánh sâu sắc những giá trị phổ quát của thế giới, nhất là Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”[4].
Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước được phát triển thêm một bước, tiệm cận với những giá trị phổ biến của Nhà nước pháp quyền nói chung, đồng thời phù hợp với thể chế chính trị ở Việt Nam, là quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đồng thời, đã bổ sung nội dung quan trọng là kiểm soát quyền lực. Tính thống nhất trên cơ sở phân cấp, phân quyền hợp lý giữa chính quyền trung ương và địa phương được nhấn mạnh hơn.
2.Những điểm mới, bổ sung, phát triển của Đảng tại Đại hội XIII
Một là, về chủ trương, Văn kiện lần này nhấn mạnh, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Trong điều kiện mới, xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. ”Lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”[5]. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định; nhấn mạnh yêu cầu đẩy nhanh tiến độ ban hành các luật trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp 2013, tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan nhà nước.
Hai là, về Quốc hội, nội dung mới nêu rõ: Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, tăng tính chuyên nghiệp, hiệu quả và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Nhấn mạnh, tiếp tục đổi mới quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, cơ chế giám sát, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu, nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách; giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp. Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản biện xã hộỉ của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân.
Ba là, về Chính phủ, Văn kiện khẳng định: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Chính phủ, các bộ, ngành theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực; phát huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; tăng cường năng lực dự báo và khả năng thích ứng chính sách trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện hiện nay: ”Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương, bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất”[6]. Trong điều kiện mới, xác định rõ hơn chức năng quản lý nhà nước, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở quy luật thị trường, đi đôi với tăng cường công tác giám sát, giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không can thiệp, làm sai lệch các quan hệ thị trường. Đồng thời phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành; khắc phục triệt để chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng, hiệu quả. Nâng cao chất lượng dịch vụ công.
Bốn là, về Tư pháp, yêu cầu tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Bổ sung nội dung xây dựng và thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp giai đoạn mới theo hướng tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp; phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định; nhấn mạnh mục tiêu xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, hiện đại, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp.
Năm là, về chính quyền địa phương, lần này bổ sung, làm rõ hơn nội dung: Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định; thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhằm xây dựng và vận hành các mô hình quản trị chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cải cách phân cấp ngân sách nhà nước theo hướng phân định rõ ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương, nâng cao tính chủ động, tự chủ của ngân sách địa phương. Gắn kết và đổi mới tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp.
Sáu là, về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, so với trước, lần này nhấn mạnh: Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước, có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách, đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển. Đưa ra yêu cầu, có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, kỷ luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, không còn uy tín đối với nhân dân.
Thúc đẩy xây dựng chính quyền điện tử, tăng cường sự kết nối, trao đổi thông tin thường xuyên giữa chính quyền các cấp, giữa chính quyền với người dân và doanh nghiệp.Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật; cải cách thủ tục hành chính; kiện toàn tổ chức, tinh giảm hợp lý đầu mối, bỏ cấp trung gian, tinh giản biên chế. Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, tư tưởng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cho đến nay là sự tiếp tục nhận thức và hoàn thiện theo các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đó là:
-Lấy nhân dân là nguồn gốc, là chủ thể quyền lực của Nhà nước, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa.
-Coi Hiến pháp và pháp luật có vị trí, hiệu lực cao nhất không chỉ đối với xã hội, mà ngay cả trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, là cơ sở của quyền lực Nhà nước. Do vậy, pháp luật phải đảm bảo tính công khai, minh bạch, nhất quán, dễ áp dụng.
-Quyền lực Nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
-Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tôn trọng các cam kết quốc tế với tư cách là một thành viên. Nâng cao trách nhiệm pháp lý trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Quyền lợi đi đôi với nghĩa vụ; dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương.
- Thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia
-Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
3 . Khái quát thực tiễn việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng, hoàn thiện qua nhiều thời kỳ với đặc điểm, tính chất đặc thù Việt Nam, từng bước tiếp cận chuẩn mực, tinh hoa nhân loại. Quá trình đó có nhiều giai đoạn chuyển đổi, từ Nhà nước chuyên chính vô sản sang nhà nước Nhà nước có tính pháp quyền, đề cao vai trò của Hiến pháp và pháp luật. Những quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tiếp tục được thể chế hóa trong Hiến pháp 1992, Hiến pháp sửa đổi năm 2001 và Hiến pháp 2013, cũng như các văn bản pháp luật của Nhà nước và được triển khai thực hiện trên thực tế. Việc đổi mới được dựa trên ba trụ cột cơ bản là : (i) Xây dựng và hoàn thiện một Nhà nước pháp quyền hiện đại được đổi mới cả chất và lượng; (ii) Tạo dựng môi trường phát triển đầy đủ một nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập sâu rộng với quốc tế; (iii) Thiết lập một xã hội dân chủ phát triển ở trình độ cao hơn, trong đó thượng tôn pháp luật, phù hợp với đặc điểm, điều kiện của đất nước là nguyên tắc chủ đạo, chi phối các mối quan hệ xã hội, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường và xã hội.
Bộ máy nhà nước dần được được hoàn thiện theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, cơ chế vận hành có nhiều thay đổi so với trước đây, mối quan hệ giữa Quốc hội, chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội thích ứng dần với xây dựng Nhà nước pháp quyền. Quốc hội có nhiều đổi mới trong tổ chức và hoạt động; chính phủ được sắp xếp lại các đầu mối, tập trung làm tốt chức năng quản lý vĩ mô. Vai trò Nhà nước kiến tạo phát triển theo hướng: (i) Đủ năng lực đóng vai trò hướng dẫn, giảm bớt việc tham gia trực tiếp vào hoạt động phát triển kinh tế và xã hội, (ii) Nhà nước được cải cách về tổ chức, cơ chế hoạt động theo hướng quản trị hiện đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương chuyển mạnh sang phân cấp, phân quyền. Sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rành mạnh hơn. Tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình ngày càng rõ hơn.
Hệ thống luật pháp được xây dựng và hoàn thiện đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên nhiều phương diện, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, Việt Nam đã thực hiện, tham gia sâu rộng nhiều cam kết quốc tế, là thành viên có trách nhiệm, tin cậy của cộng đồng quốc tế. Quyền con người, quyền công dân tiếp tục được cụ thể hóa bằng hệ thống luật pháp và đảm bảo thực thi trên thực tế. Dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện của người dân được quan tâm và đảm bảo trên thực tế. Các chủ thể trong xã hội bình đẳng trước pháp luật, được làm những điều pháp luật không cấm.
Có thể thấy, kết quả cụ thể đạt được thể hiện:
- Thực sự đóng góp vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sau 35 năm đổi mới đất nước. Chưa bao giờ đất nước có vị thế, uy tín, tiềm lực và cơ đồ to lớn như ngày nay.
- Hoạt động xây dựng pháp luật phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, trong gần 40 năm đổi mới, số lượng luật và pháp lệnh ban hành tăng nhanh, trong 20 năm đầu đổi mới (1986-2005), Quốc hội thông qua 7 bộ luật, 133 luật và 15 pháp lệnh thì gần 20 năm sau (2006-2021), Quốc hội thông qua được 329 luật, pháp lệnh. Nhiều điều luật, điều ước quốc tế phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước đã được nội luật hóa, nhất là vấn đề liên quan đến quyền con người. Hiệu quả thực thi pháp luật không ngừng được nâng lên.
- Đổi mới tư duy về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phù hợp với điều kiện KTTT định hướng XHCN. Khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tính chuyên nghiệp, minh bạch, trách nhiệm giải trình, phân cấp, phân quyền khoa học, hiệu lực, hiệu quả hơn.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Chất lượng đội ngũ cán bộ không ngừng được nâng lên, trong giai đoạn 2011-2020, số cán bộ, công chức hiện có ở bộ, ngành và địa phương từ cấp huyện trở lên là 295.536 người (trong đó ở các bộ, ngành trung ương là 125.144 người). Về chuyên môn, đào tạo: tiến sĩ: 2.347 người, (0,8%); thạc sĩ:19.136 người (chiếm 6,5%); đại học: 210.592 người (chiếm 71,3%); cao đẳng: 12.885 người (chiếm 4,4%)..[7]
- Công cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước được triển khai tích cực bằng nhiều biện pháp. Chỉ tính riêng trong các năm 2016-2021, ngành Tòa án đã thụ lý 2.433.631 vụ việc, đã giải quyết được 2.375.938 vụ việc, đạt tỷ lệ 97,6%. Đã xét xử 7.463 vụ án tham nhũng, chức vụ, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp với 14.540 bị cáo, áp dụng hình phạt nghiêm minh, đúng pháp luật[8].
- Sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội tham gia đóng góp, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền không ngừng được nâng lên; dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được coi trọng.
Về hạn chế, khuyết điểm:
Bộ máy nhà nước còn công kềnh, nhiều tầng nấc, một số lĩnh vực chưa được phân công, phân quyền đủ mạnh, chưa rành mạch dẫn đến tình trạng thẩm quyền vừa bị phân mảnh, manh mún vừa có sự trùng giẫm, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực còn nhiều bất cập. Yêu cầu xây dựng một hệ thống hành chính dựa trên nguyên tắc phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, chuyên nghiệp chưa theo kịp với thực tiễn; hệ thống luật pháp tuy đã có bước phát triển mạnh, nhưng vẫn còn tình trạng vừa thiếu, vừa yếu. Thủ tục hành chính còn rườm rà. Về công tác ban hành pháp luật tuy đã được đẩy mạnh, có bước đổi mới về quy trình, nhưng chất lượng của một số văn bản pháp luật còn hạn chế; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa đã có tiến bộ, song ở một số nơi còn bị buông lỏng, việc chấp hành pháp luật có lúc, có nơi còn chưa nghiêm; những vi pháp pháp luật, mất dân chủ trong tổ chức thực hiện vẫn còn; tham nhũng, tiêu cực tuy có giảm, nhưng diễn biến còn phức tạp.
Trách nhiệm giải trình của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước trước dân có nơi còn hình thức. Cải cách tư pháp đã có nhiều tiến bộ trong hoạt động tố tụng, xét xử các vụ án, song tình trạng oan sai, nợ đọng còn nhiều. Vai trò của hệ thống thông tin, báo chí đã được coi trọng hơn, nhưng việc xử lý thông tin, trách nhiệm giải quyết một số vụ việc chưa rõ ràng, thậm trí nhiều vụ việc còn chưa minh bạch. Vai trò của các tổ chức xã hội chưa phát huy đầy đủ, quyền con người, quyền công dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm. Về thực hành dân chủ chưa thật đồng bộ, đặc biệt trong xử lý các mối quan hệ giữa quyền và trách nhiệm, dân chủ và kỷ cương ở một số lĩnh vực, bộ phận cơ quan công quyền với người dân chưa rõ ràng.
Từ những kết quả và hạn chế nêu trên, có thể rút ra bài học kinh nghiệm trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như sau:
Một là, kiên định trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại, thường xuyên tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, không giáo điều, dập khuôn cũng không tùy tiện vô nguyên tắc
Hai là, phải thống nhất về nhận thức và tổ chức thực hiện, gắn bó chặt chẽ với xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong từng giai đoạn.
Ba là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, đồng bộ, toàn diện, có bước đi, hình thức phù hợp. Đấu tranh có hiệu quả âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch.
Bốn là, trong tổ chức và hoạt động, coi trọng xây dựng, hoàn thiện nền quản trị quốc gia hiện đại, gắn kết chặt chẽ giữa pháp trị và đức trị trong tổ chức thực hiện. Tập trung hoàn thiện thể chế phát triển, đi đôi với xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tinh gọn, chuyên nghiệp, đề cao trách nhiệm, đạo đức công vụ.
Năm là, phải coi đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội và người dân, đảm bảo các nguyên tắc chỉ đạo trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền hiện nay và các giai đoạn tiếp theo.
4. Đề xuất các giải pháp về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian tới
Công cuộc đổi mới của Việt Nam tiếp tục đi vào chiều sâu, đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử sau hơn 35 năm đổi mới. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được phát triển theo hướng hiện đại, hội nhập sâu rộng, trên nhiều lĩnh vực tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế. Bởi vậy, những kết quả có được nêu trên một phần quan trọng là Việt Nam đã giải quyết thành công nhiều vấn đề, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn trong quá trình đổi mới, trong đó có quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa phát triển kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân… Nhờ đó, đem lại những kết quả to lớn, sự thống nhất cao, trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bước vào giai đoạn mới, sau thành công của Đại hội XIII của Đảng, vấn đề về xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả có vị trí hết sức quan trọng, đặc biệt là hướng tới những mốc quan trọng của đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo sự thống nhất trong Đảng và toàn xã hội; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội, đảm bảo thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, thực hành dân chủ đi đôi với trách nhiệm, quyền và lợi ích của người dân.
Hai là, tiếp tục nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, như vấn đề về dân chủ xã hội chủ nghĩa trong chế độ một Đảng, tính ưu việt, thực tiễn và đặc thù Việt Nam; giá trị phổ quát và tính đặc thù trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam; quyền lực là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong điều kiện mới, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, đảm bảo tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình; Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền; mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội…
Ba là, đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đến 2030, tầm nhìn 2045 hoạt động hiệu lực, hiệu quả phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế trong từng giai đoạn. Xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại; tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý..Làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nâng cao tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, đạo đức công vụ cho cán bộ, công chức. Đẩy mạnh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Bốn là, tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương xã hội. Hoàn thiện pháp luật về dân chủ trực tiếp như trưng cầu ý dân; lấy ý kiến nhân dân; nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; vấn đề bãi miễn đại biểu dân cử khi không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về dân chủ gián tiếp, như vấn đề bầu cử; mối quan hệ giữa nhân dân với các thiết chế đại diện... Tiếp tục rà soát, hoàn thiện, nội luật hóa các luật, điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết..
Năm là, đổi mới mạnh mẽ hoạt động xây dựng pháp luật, hạn chế ủy quyền pháp luật, quy định chế tài pháp luật phù hợp hơn; chú trọng xây dựng đầy đủ cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân tham gia xây dựng pháp luật, coi trọng hiệu quả thực thi pháp luật. Về lâu dài, phải xây dựng, hoàn thiện được một hệ thống pháp luật thể hiện đúng, đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất, phù hợp, ổn định và khả thi. Nội dung luật phải đảm bảo tính dân chủ, thúc đẩy tiến bộ xã hội, vì hạnh phúc con người. Việc tổ chức thi hành pháp luật phải đảm bảo tinh thần thượng tôn pháp luật..
PGS.TS Phạm Văn Linh
Phó Chủ tịch HĐLLTW
Tài liệu tham khảo
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb CTQG ST, Hà Nội, 2013.
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb, CTQG ST, Hà Nội, 2021.
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb, CTQG ST, Hà Nội, 2021
- Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị, khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
- Nghị quyết số: 49-NQ/TW, ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị, khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
- Báo cáo số 1485-BC/ĐĐQH14 ngày 04 tháng 11 năm 2019 về Tổng kết Nghị quyết 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa, IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
- Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận- thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb CTQG ST, Hà Nội, 2016.
- Kết luận số 83-KL của Bộ Chính trị về tổng kết Nghị quyết 48/NQ/TW
- Kết luận số 84-KL của Bộ Chính trị về tổng kết Nghị quyết 48/NQ/TW