Phát huy quyền làm chủ của nhân dân góp phần kiểm soát, giám sát quyền lực ở Việt Nam hiện nay

PLQL - Phát huy quyền làm chủ của nhân dân được C. Mác, V.I. Lê-nin đặc biệt quan tâm. V.I. Lê-nin viết: “Không có chế độ dân chủ thì chủ nghĩa xã hội không thể thực hiện được theo hai ý nghĩa sau đây

Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong kiểm soát, giám sát quyền lực

Phát huy quyền làm chủ của nhân dân được C. Mác, V.I. Lê-nin đặc biệt quan tâm. V.I. Lê-nin viết: “Không có chế độ dân chủ thì chủ nghĩa xã hội không thể thực hiện được theo hai ý nghĩa sau đây: 1- Giai cấp vô sản không thể hoàn thành được cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu họ không được chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ; 2- Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình và sẽ không dẫn được nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu nhà nước, nếu không thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ”(1). Về cơ chế thực hành dân chủ, V.I. Lê-nin cho rằng, nội dung dân chủ phải được bảo đảm bằng Hiến pháp, bằng toàn bộ hệ thống pháp luật. Người nhấn mạnh, không phải chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố và ra sắc lệnh về dân chủ, không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân chủ cho những người đại diện nhân dân là đủ, mà còn phải xây dựng chế độ dân chủ từ cơ sở, dựa vào ý kiến của bản thân quần chúng với sự tham gia thực sự của quần chúng vào đời sống của Nhà nước và phải có sự kiểm tra, giám sát.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực, kiểm soát, giám sát quyền lực luôn gắn với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Người viết: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của nhân dân”(2). Người chỉ rõ cơ chế nhân dân giao quyền cho cơ quan nhà nước thông qua bầu cử theo nguyên tắc “phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền lực chính trị phải gắn với quyền lực kinh tế: “Chúng ta tranh đấu được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết tới giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(3). Để khắc phục tình trạng lộng quyền, lợi dụng quyền lực để tham ô, Người yêu cầu các cơ quan nhà nước và cán bộ phải chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”(4). Để thực hiện kiểm soát, giám sát quyền lực có hiệu quả, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra các phương thức: “Kiểm tra không chỉ nên căn cứ vào các tờ báo cáo mà phải đến tận nơi. Kiểm tra phải có hệ thống, phải tổ chức chu đáo. Kết hợp chặt chẽ việc kiểm tra, giám sát với tự kiểm tra, kiểm điểm của mỗi cá nhân”. Theo Người, cơ chế kiểm soát quyền lực đối với bộ máy nhà nước, chính là kiểm soát, giám sát cán bộ vì “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.

Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta rất quan tâm đến đổi mới phương thức lãnh đạo để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia kiểm soát, giám sát quyền lực. Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”(5). Đại hội XII của Đảng cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” bằng nội dung “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp” bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể; quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân về những quyết định của mình. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 Khóa XII nhấn mạnh: “Phải siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, thực hiện nghiêm các quy tắc tổ chức của Đảng; cán bộ, đảng viên vi phạm phải có hình thức xử lý kịp thời, chính xác, bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng”(6).

Đảng có nhiều chủ trương đúng đắn để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Sau hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng ta rút ra bài học quan trọng: Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, những ý kiến, nguyện vọng chính đáng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là một nguồn gốc hình thành đường lối của Đảng và nhân dân chính là người làm nên những thành tựu của công cuộc đổi mới. Đảng ta xác định dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước, là bản chất của chế độ XHCN. Quyền làm chủ của nhân dân được tổng kết thành phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nhân dân làm chủ thông qua các hình thức tự quản, thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Hiến pháp và nhiều văn bản quy phạm pháp luật, như Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Trưng cầu ý dân,… đều có quy định cụ thể về điều kiện, hình thức, phương thức để nhân dân tham gia vào các hoạt động quản lý nhà nước và xã hội. Các luật khác, như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh niên… đều cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về vai trò của các đoàn thể chính trị - xã hội tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Theo quy định của Hiến pháp, nhân dân có quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước thông qua trưng cầu ý dân (theo Luật Trưng cầu ý dân) và trực tiếp quyết định nhiều vấn đề liên quan đến đời sống của nhân dân. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức thông qua bầu cử dân chủ, nhận sự ủy quyền có điều kiện của nhân dân, thực thi quyền lực nhà nước của nhân dân. Đây là hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước quan trọng nhất; bởi vì, bầu cử những người vào cơ quan quyền lực nhà nước liên quan đến quyền dân chủ của nhân dân và quyền lãnh đạo của Đảng. Người dân có quyền và trách nhiệm lựa chọn những người có đức, có tài, xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Sau bầu cử, người dân còn thực hiện quyền giám sát hoạt động của Nhà nước, của những người được nhân dân bầu cử và có quyền bãi miễn họ thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân khi họ không còn là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của cử tri. Quyền bãi miễn xuất phát từ nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là tối thượng. Vừa qua, cử tri cả nước rất tích cực tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp trong các kỳ đại biểu tiếp xúc cử tri. Nhiều kiến nghị, chất vấn của nhân dân đến Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp được tiếp thu, giải quyết kịp thời. Nhân dân kiểm soát quyền lực trong hệ thống chính trị thông qua các tổ chức có tính đại diện xã hội, các đoàn thể chính trị - xã hội, như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu Chiến binh Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các hội quần chúng, hội nghề nghiệp khác. Hằng năm, các đoàn thể chính trị - xã hội, hội nghề nghiệp... đều tập hợp được những tâm tư, nguyện vọng, các kiến nghị, đề xuất của đoàn viên, hội viên để báo cáo với Đảng, với Quốc hội, Hội đồng nhân dân; góp phần nâng cao hiệu quả việc giám sát, kiểm soát quyền lực của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý trong cả hệ thống chính trị. Thông qua các phương tiện truyền thông, như báo in, báo viết, báo hình, báo mạng... nhiều phản ánh, ý kiến của người dân được tổ chức Đảng, Nhà nước giải quyết, xử lý kịp thời, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Bên cạnh những kết quả, thành tựu đạt được, sự lãnh đạo của Đảng trong việc để nhân dân kiểm soát quyền lực đối với hệ thống chính trị còn có phần hạn chế. Việc phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan truyền thông và nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên đạt hiệu quả chưa cao. Không ít vụ, việc tiêu cực, tham nhũng được nhân dân phát hiện nhưng không được cấp ủy, tổ chức đảng ngăn chặn, xử lý, giải quyết kịp thời. Việc tổ chức để quần chúng tham gia góp ý xây dựng Đảng, góp ý kiến cho cán bộ, đảng viên ở nhiều nơi còn mang tính hình thức, như Luật Tiếp cận thông tin… Quyền bãi miễn xuất phát từ nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhưng trong các văn bản pháp luật không có quy định nào nêu rõ đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân vi phạm thì bị coi là không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Nhiều đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân khi tiếp xúc cử tri nhận được rất nhiều kiến nghị, đề xuất chính đáng của cử tri; nhưng qua theo dõi, giám sát việc giải quyết của chính quyền với cử tri chưa tích cực, không thường xuyên, nên tỷ lệ kiến nghị được giải quyết rất thấp. Việc tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật của một số cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp chưa tốt. Ở nhiều nơi, công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư, chuyển đổi chợ mới… vẫn còn vi phạm Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Nhân dân trực tiếp giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền hoặc kiến nghị thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội để giải quyết đơn, thư, khiếu nại, tố cáo nhưng số lượng được giải quyết còn thấp.

Một số nhiệm vụ, giải pháp cần thực hiện tốt trong thời gian tới

Một là, đổi mới việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng.

Các cấp ủy đảng cần tổ chức các đoàn đi khảo sát, đánh giá thực tế các loại hình tổ chức cơ sở đảng ở các địa bàn, vùng, miền khác nhau. Sau khi khảo sát, cần đánh giá, tổ chức các cuộc tọa đàm, hội thảo để lấy ý kiến góp ý, đề xuất để nâng cao chất lượng các nghị quyết của Đảng. Quá trình lấy ý kiến tham gia góp ý, chính là để chuyển biến nhận thức của nhân dân về nội dung, vấn đề cấp ủy cần định hướng lãnh đạo, chỉ đạo. Phương pháp lấy ý kiến của nhân dân nên tùy điều kiện cụ thể của từng đơn vị, địa phương để lựa chọn, như phát phiếu hỏi đáp về nội dung, sự cần thiết ra đời nghị quyết? Hạn chế của vấn đề cần ra nghị quyết là gì? Nguyên nhân vì sao? Nếu thực hiện thì có biện pháp, giải pháp nào hiệu quả…? Trên cơ sở tổng hợp được các vấn đề thì tổ chức tọa đàm lấy ý kiến góp ý của các chuyên gia, đội ngũ trí thức trước khi hoàn chỉnh văn bản dự thảo. Khi văn bản dự thảo nghị quyết, đề án đã hoàn thành thì nên công khai toàn văn đến nhân dân, và đến các đảng bộ trực thuộc để lấy ý kiến lần cuối trước khi trình cấp ủy thảo luận, quyết định ban hành.

Hai là, Đảng đổi mới việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong kiểm soát, giám sát việc tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết, chủ trương của Đảng.

Nhân dân tham gia kiểm soát, giám sát việc tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, đưa nghị quyết vào cuộc sống là vấn đề rất quan trọng và cần thiết. Để ban hành một chủ trương, nghị quyết các cấp ủy đều thực hiện qua các bước, như xây dựng, ban hành nghị quyết, tổ chức phổ biến, quán triệt nghị quyết, lãnh đạo nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa nghị quyết thành Cương lĩnh, kế hoạch, các cơ chế, chính sách, đề án, dự án để thực hiện. Đảng đã ban hành một số văn bản để nhân dân thông qua tổ chức của mình thực hiện quyền đó, như Quyết định số 217-QĐ/TW, Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị khóa XI; Quốc hội đã ban hành một số luật có nội dung liên quan đến quyền và trách nhiệm của công dân, như Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Trưng cầu ý dân,… Ngoài ra, còn có Nghị định số 04/2015/NĐ-CP, ngày 9-1-2015, của Chính phủ; Nghị định số 60/2013/NĐ-CP, ngày 16-6-2013, của Chính phủ và Pháp lệnh số 34/2007/PL, ngày 20-4-2007, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, về “thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”

Ba là, tiếp tục phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong kiểm soát, giám sát đạo đức, lối sống, hành động gương mẫu của cán bộ, đảng viên

Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 08-QĐ/TW, ngày 25-10-2018, về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng”. Những quy định trên đã tạo điều kiện cho nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể  chính trị - xã hội trực tiếp góp ý cho cán bộ, đảng viên về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hành động gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Nhiều địa phương đã tổ chức tốt cuộc góp ý đảng viên ở địa bàn cư trú theo định kỳ hằng năm với tinh thần thẳng thắn, xây dựng; thông qua các cơ quan truyền thông để phản ánh những vụ, việc trái pháp luật, trái quy định của Đảng, của một số cán bộ có chức vụ, quyền hạn; người dân đã trực tiếp gửi đơn, thư phản ánh, tố cáo đến ủy ban kiểm tra, thanh tra các cấp, đến Ban Dân nguyện của Quốc hội để kịp thời giải quyết, xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân, của đảng viên.

Bốn là, thực hiện tốt quyền làm chủ của nhân dân, góp phần kiểm soát, giám sát công tác cán bộ

Để phát huy dân chủ của nhân dân trong công tác cán bộ, Ban Bí thư đã ban hành Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày 3-10-2017, về “Ban hành Hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Quy định việc công khai “Bản cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, không “tự diễn biến”
 “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên; bản kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ lãnh đạo, quản lý và người phải kê khai theo quy định”; công khai trên các phương tiện truyền thông đại chúng; cổng thông tin điện tử, niêm yết tại trụ sở cơ quan, đơn vị; thông qua họp báo, hội nghị, hội thảo, sinh hoạt chi bộ, thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội; gửi văn bản hoặc bằng các hình thức khác, để nhân dân dễ biết, dễ giám sát cán bộ. Người dân có quyền, có trách nhiệm lựa chọn những người đại diện thực hiện sứ mệnh của nhân dân; đồng thời, dùng quyền giám sát và quyền bãi miễn khi cán bộ, đảng viên không còn xứng đáng. 

Năm là, đẩy mạnh việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong kiểm soát, giám sát hoạt động của cơ quan lập pháp

Đảng lãnh đạo Quốc hội thông qua Đảng đoàn Quốc hội. Quốc hội là cơ quan lập pháp, thực hiện quyền ban hành và giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội. Để nhân dân thực hiện có hiệu quả quyền kiểm soát quyền lực của mình, Quốc hội phát huy tối đa sự tham gia của người dân trong việc xây dựng và ban hành các đạo luật, các vấn đề trọng đại của đất nước. Nhân dân kiểm soát quyền lực của Quốc hội thông qua việc Quốc hội thực hiện tốt chức năng giám sát tối cao. Quốc hội phải giám sát chặt chẽ các hoạt động của các cơ quan hành pháp, để các cơ quan hành pháp chấp hành tốt pháp luật. Cử tri cả nước rất đồng tình với việc đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp của Quốc hội. Hoạt động này, góp phần tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho nhân dân và giúp các thành viên của Chính phủ tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước trên các lĩnh vực trước nhân dân; đồng thời, giải quyết các đề xuất, kiến nghị chính đáng của công dân qua hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội cần đưa vào quy định trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân về giám sát cơ quan chức năng giải quyết kiến nghị của cử tri, coi đây là một tiêu chuẩn quan trọng đánh giá, phân loại đại biểu hằng năm. Vừa qua, đại biểu Quốc hội đã bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu, đây là một kênh thông tin quan trọng thực hiện kiểm soát quyền lực của nhân dân thông qua người đại diện của mình.

Sáu là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong kiểm soát, giám sát hoạt động của các cơ quan hành pháp

 Đảng lãnh đạo Chính phủ thông qua Ban Cán sự Đảng Chính phủ. Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp. Cơ quan hành pháp có chức năng, nhiệm vụ rất quan trọng là quyết định chính sách để nhân dân kiểm soát quyền lực cụ thể đối với các cơ quan chức năng trong hệ thống chính trị. Chính sách đó bao gồm chính sách về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Nhiệm vụ của cơ quan hành pháp rất rộng, như xây dựng quy hoạch, kế hoạch, thực hiện cải cách hành chính, quản lý nhà nước về tài nguyên, khoáng sản, về ngân sách, thực hiện công tác thanh tra… Nhân dân kiểm soát quyền lực của chính quyền thông qua cơ quan kiểm toán (trực thuộc Quốc hội), thông qua chức năng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Các kiến nghị của nhân dân đều được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ban Dân nguyện tổng hợp để báo cáo tại các kỳ họp Quốc hội, yêu cầu Chính phủ giải trình công khai, dân chủ. Tuy nhiên, còn nhiều vụ, việc vi phạm pháp luật của một số cán bộ chính quyền chậm được điều tra, xử lý kịp thời đã làm giảm lòng tin của nhân dân với chính quyền. Theo quy định của Hiến pháp, Thủ tướng Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội, nhưng trên thực tế quyền hành pháp về cơ bản được giao cho nhiều người đảm nhiệm, vì thế trách nhiệm của cá nhân vẫn chưa thực sự rõ ràng, vẫn còn xen lẫn trong trách nhiệm tập thể, bao gồm các thành viên của Chính phủ. Việc bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu ra là một trong những biện pháp quan trọng nhằm tăng cường trách nhiệm của các thành viên Chính phủ. Khoản 2, Điều 96 của Hiến pháp năm 2013, quy định rõ trách nhiệm của Chính phủ trong việc hoạch định chính sách. Để giữ vững kỷ cương, kỷ luật, chính quyền các cấp phải chỉ đạo cơ quan thanh tra tăng cường thanh tra trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhất là việc quản lý nhà nước về đất đai, đầu tư công, các công trình, dự án… để xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật của công chức, viên chức. Đây là công cụ quan trọng thực hiện quyền kiểm soát của nhân dân đối với chính quyền các cấp.

Bảy là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong kiểm soát, giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp

Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp, chủ yếu thông qua Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân. Cấp ủy đảng định hướng lãnh đạo hoạt động tư pháp, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện để hoạt động tư pháp đúng chủ trương, nghị quyết của Đảng và quy định của pháp luật. Phương thức quan trọng để kiểm soát quyền lực nhà nước là xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước để các cơ quan quyền lực nhà nước thực thi quyền lực nhà nước vừa thống nhất phối hợp hành động, vừa kiểm soát lẫn nhau, không một cơ quan nào có thể lạm quyền. Ở nước ta, Điều 2, Khoản 3, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, có quyền xét xử đối với bất kỳ đại biểu Quốc hội, thành viên chính phủ nếu họ vi phạm pháp luật. Việc hiến định nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm, làm cho khả năng kiểm soát quyền lực nhà nước của tòa án được rõ ràng. Ngoài chức năng thực hành quyền công tố, viện kiểm sát nhân dân có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp; qua đó, có thể kiểm sát, ngăn chặn được việc lạm quyền của cơ quan và công chức nhà nước trong các hoạt động tư pháp. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức tốt công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật đến người dân, là một trong những giải pháp hữu hiệu để nhân dân kiểm soát quyền lực qua hoạt động tư pháp tốt hơn. Khi hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và đông đảo người dân có kiến thức, có ý thức bảo vệ pháp luật thì việc giám sát, kiểm soát hoạt động của các cơ quan tư pháp sẽ có hiệu quả tốt.

Tám là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, góp phần kiểm soát, giám sát quyền lực

Đảng đã xây dựng và ban hành kịp thời các nghị quyết để định hướng lãnh đạo cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Trên cơ sở đó, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa thành các văn bản pháp luật để tổ chức đưa nghị quyết vào cuộc sống. Định kỳ năm năm, Trung ương chỉ đạo sơ kết và mười năm chỉ đạo tổng kết, đánh giá kết quả việc tổ chức thực hiện nghị quyết ở các cấp, các ngành. Việc đổi mới nội dung và hình thức kiểm tra, sơ kết, tổng kết các nghị quyết chuyên đề của các cấp ủy đảng, góp phần phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội để kiểm soát, giám sát quyền lực của các cơ quan nhà nước. Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, “Về quy chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”. Trên cơ sở Quy định 217-QĐ/TW, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đã xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát có trọng tâm, trọng điểm một số lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến người dân, như giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, hội đồng nhân dân, việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, các chính sách, pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân; việc thu chi các quỹ do nhân dân đóng góp, kinh phí xây dựng nông thôn mới, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp, các ngành… Đảng có chủ trương thông qua hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để động viên những người ngoài Đảng tham gia chính quyền bằng cách tự ứng cử; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội thường xuyên sâu sát cơ sở, lắng nghe kịp thời tâm tư, nguyện vọng, đề xuất, kiến nghị chính đáng, hợp pháp của nhân dân để tổng hợp phản ánh cho cấp ủy đảng, Quốc hội, hội đồng nhân dân, chính quyền các cấp xem xét, giải quyết. Thực hiện các quy định của Đảng như, Quy định số 11-QĐ/TW, ngày 18-2-2019, “Về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân”… để giám sát việc thực hiện. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp đã tăng cường công tác tiếp dân, đối thoại với dân, nhiều bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân được giải quyết kịp thời, góp phần tích cực làm ổn định chính trị, hạn chế khiếu kiện đông người, giảm thiểu phát sinh điểm nóng ở các địa phương./.

Nguyễn Thế Trung

Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương

(Theo Tạp chí Cộng sản)


(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 2006, t. 30, tr. 167

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 6, tr. 232

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 175

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 375

(5) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 45 

(6) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 45

  • Tags: