TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Về vai trò, vị trí của đạo đức cách mạng, Người luôn coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng; có đạo đức cách mạng mới hoàn thành sự nghiệp cách mạng vẻ vang. Theo Người: “Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không”(1). Hay: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(2).
Người còn cho rằng, đạo đức cách mạng là động lực giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, luôn giữ được thái độ chất phác, khiêm tốn, giản dị, hòa mình với nhân dân chứ không mắc bệnh kèn cựa, quan liêu, kiêu ngạo, hủ hóa.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức có mối quan hệ chặt chẽ với tài năng, trong đó đức là gốc. Điều đặc biệt trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không chỉ gắn với cá nhân mỗi người, đạo đức cách mạng còn tạo nên tính nhân văn của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội tạo nên những con người sống có tình có nghĩa; có đạo đức cách mạng như cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có kiến thức khoa học kỹ thuật; nhạy bén với cái mới và có tinh thần sáng tạo.
Về những chuẩn mực đạo đức cách mạng cơ bản, trong tác phẩm Đạo đức cách mạng (1958), Hồ Chí Minh nói: “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”(3). Theo đó, các chuẩn mực đạo đức cách mạng cơ bản là:
Trung với nước, hiếu với dân, đây là phẩm chất bao trùm, quan trọng nhất. Theo Người, trung với nước hiếu với dân là yêu nước, nước ở đây là nước của dân, của toàn dân tộc chứ không phải của riêng ai, và chính mỗi người dân là những chủ nhân của nước. Hiếu với dân là phải biết yêu dân, kính dân, trọng dân, lấy dân làm gốc; đề cao tinh thần phục vụ nhân dân, có trách nhiệm trước dân, để dân tin, dân phục, dân yêu, dân ủng hộ, dân giúp đỡ.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đây là phẩm chất đạo đức trung tâm vì nó có trong tất cả các quan hệ của con người. Trong nhiều bài nói, bài viết, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nội hàm của những phẩm chất đạo đức đó. Cần tức là tổ chức công việc, phân công lao động, bố trí đúng người đúng việc đúng tài năng, năng lực để ai cũng làm được việc và phát huy sở trường của mình. Kiệm là tiết kiệm toàn diện, mọi mặt như tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, tiền của, thời gian... Liêm tức là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm tài sản của Nhà nước, của nhân dân; không tham địa vị, tiền tài, không ham người tâng bốc mình. Chính là việc phải dù nhỏ mấy cũng làm, việc trái dù nhỏ mấy cũng tránh. Người cho rằng, có thể chia con người làm hai hạng là thiện và ác; chia công việc làm hai loại là chính và tà. Làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người ác. Chí công vô tư là khi làm bất cứ việc gì cũng không nghĩ đến mình trước, mà phải nghĩ đến đồng bào, đến toàn dân, nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Yêu thương, quý trọng con người, trong tư duy Hồ Chí Minh, lòng yêu thương con người bắt nguồn từ sự thấu hiểu, đồng cảm của những người cùng cảnh ngộ. Theo Hồ Chí Minh, Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống nhân dân: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”(4). Lòng yêu thương con người phải biến thành hành động cách mạng đấu tranh để giải phóng con người; lòng yêu thương con người thể hiện ở việc trân trọng con người, quan tâm đến con người và chăm lo cho cuộc sống con người; lòng yêu thương con người còn thể hiện ở sự khoan dung, độ lượng.
Tinh thần quốc tế trong sáng, đây là chuẩn mực đạo đức điều chỉnh quan hệ rộng nhất của con người. Là một phẩm chất đạo đức bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân và chế độ xã hội chủ nghĩa, tinh thần quốc tế trong sáng trước hết được thể hiện ở sự ủng hộ lẫn nhau giữa nhân dân lao động các nước khi có khó khăn, thiên tai, địch họa, chiến tranh, khi cần giúp đỡ, khi cần động viên. Sự giúp đỡ này chỉ trở thành tinh thần quốc tế khi vô tư trong sáng, không vụ lợi, không cào bằng, không điều kiện. Tinh thần quốc tế đó phải tạo ra sự đoàn kết, gắn bó giữa các nước, giữa nhân dân lao động các nước vì hòa bình, công lý và sự phát triển chung của nhân loại tiến bộ; đấu tranh cho sự bình đẳng các dân tộc; kiến tạo hòa bình thế giới, trên tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em”. Do đó, trong Di chúc, Người căn dặn: “Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình”(5).
Về các nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng, theo Người, cần phải tu dưỡng rèn luyện đạo đức suốt đời bởi lẽ “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(6). Mỗi giai đoạn cách mạng có những mục tiêu, nhiệm vụ, yêu cầu cụ thể đòi hỏi người cán bộ, đảng viên phải trau dồi, cố gắng, vươn lên để có những phẩm chất đạo đức tương ứng. Không tu dưỡng, rèn luyện sẽ không theo kịp sự trưởng thành, đi lên của cách mạng, sẽ tụt hậu so với sự nghiệp chung của đất nước, dân tộc.
Ngoài ra, cần phải “Nói đi đôi với làm”, nêu gương về đạo đức. Hồ Chí Minh thường căn dặn cán bộ, đảng viên nói ít làm nhiều, chủ yếu là hành động. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nêu gương về đạo đức có vị trí hết sức quan trọng. Với cán bộ, đảng viên - những người từ nhân dân mà ra, nhưng lại có trách nhiệm hướng dẫn nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, muốn hướng dẫn nhân dân thì phải có đức, có tài, được nhân dân tin yêu, mến phục. Người đã từng cảnh báo cán bộ, đảng viên: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”(7).
XÂY DỰNG, THỰC HIỆN CÁC CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
Việc xây dựng, thực hiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh chịu tác động đồng thời bởi nhiều yếu tố. Tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Việc điều chỉnh chiến lược và sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước lớn khiến các nước nhỏ luôn phải ứng phó với những biến động khó lường. Kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực đời sống xã hội. Các vấn đề an ninh phi truyền thống, như: an ninh tài chính, an ninh mạng… ảnh hưởng lớn tới sự phát triển bền vững đất nước.
Trong nước, sự nghiệp đổi mới tiếp tục đạt được những thành tựu đáng kể trên tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, kinh tế thị trường với việc lấy lợi ích làm động lực, nhấn mạnh lợi ích kinh tế, coi trọng lợi ích cá nhân đã đẩy một số cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu bản lĩnh, suy thoái về đạo đức, lối sống lao vào làm ăn kinh tế, bất chấp thủ đoạn, coi thường pháp luật, xem nhẹ giá trị đạo đức xã hội. Mặt trái của kinh tế thị trường cũng làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên sống xa dân, độc đoán chuyên quyền, tham nhũng, lãng phí, không giữ được đạo đức cách mạng. Hơn nữa, các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, trong đó, có việc tác động tấn công, dụ dỗ, mua chuộc một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã ban hành các Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII về xây dựng Đảng gắn với thực hiện Kết luận số 01- KL/TW ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với các giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ. Điều đó đã tác động tích cực tới việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Tổng kết 35 năm đổi mới, Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Công tác xây dựng Đảng về đạo đức được đề cao, góp phần rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Việc triển khai Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện đồng bộ với các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên”(8). Nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã chú trọng nêu cao tinh thần trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, đổi mới lề lối làm việc; nghiêm khắc với mình hơn, giữ gìn đạo đức, lối sống; bước đầu tự sửa chữa khuyết điểm, tự điều chỉnh hành vi và các hoạt động trong công tác và trong cuộc sống của mình, của gia đình, vợ, chồng, con và người thân.
Tuy nhiên, Đảng cũng nhận định: “Công tác rèn luyện, quản lý cán bộ, đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức, còn thiếu chặt chẽ; có nơi còn buông lỏng sinh hoạt đảng, chất lượng sinh hoạt chưa cao, sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi vẫn còn hình thức; tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu. Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu… Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”(9). Một số cán bộ vi phạm đến mức phải kỷ luật, xử lý hình sự, trong đó có cả một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cao.
Trong điều kiện mới, để xây dựng và thực hiện chuẩn mực đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, đề cao phẩm chất đạo đức “trung với nước, hiếu với dân”, luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, tránh sa vào chủ nghĩa cá nhân.
Mỗi cán bộ, đảng viên hiện nay luôn nêu cao tinh thần trung thành tuyệt đối với mục tiêu, lý tưởng của Đảng và dân tộc. Đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu, lý tưởng đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn, vừa đáp ứng được các nhu cầu khách quan của dân tộc, vừa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Ngoài ra, mỗi cán bộ, đảng viên luôn có ý thức giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan, đơn vị. Có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc; có lương tâm nghề nghiệp trong sáng, ra sức cống hiến nhiều nhất cho đất nước. Luôn luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc của nhân dân lên trên hết, lên trước hết lợi ích cá nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, vì Đảng, vì dân mà hy sinh quên mình gương mẫu trong mọi việc. Luôn luôn tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, giải quyết kịp thời những nguyện vọng chính đáng của dân, khắc phục thói vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của nhân dân, chống bệnh quan liêu. Có tinh thần, nghị lực, ý chí vươn lên, quyết tâm vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Thứ hai, thực hiện nghiêm lời dạy “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, “nói đi đôi với làm, xây đi đôi với chống”, nêu cao phẩm giá, nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
Mỗi cán bộ, đảng viên dù ở đâu, ở cương vị nào cũng phải làm đúng chức trách, phận sự của mình. Kiên quyết chống bệnh lười biếng, lối sống buông thả, hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, nói mà không làm, nói một đằng làm một nẻo. Muốn nói đi đôi với làm có hiệu quả thì cùng với tấm lòng trung thực, còn phải biết kết hợp giữa chủ trương, biện pháp đúng đắn và sự quyết tâm. Do đó, “chủ trương 1, biện pháp 10, quyết tâm phải 20”, nghĩa là chủ trương đúng là rất quan trọng nhưng chưa đủ, phải có những biện pháp cụ thể và quan tâm tổ chức thực hiện để nói và làm có hiệu quả. Không chỉ vậy, cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu còn phải thực hiện tốt các quy định về trách nhiệm nêu gương, nhất là người đứng đầu các cấp, cán bộ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu.
Thực hiện xây và chống trong rèn luyện đạo đức cách mạng thông qua các biện pháp như tự phê bình và phê bình. Kịp thời biểu dương những điển hình tiên tiến, những tấm gương về đạo đức, lối sống, đấu tranh với những biểu hiện lệch lạc và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm đạo đức, lối sống; phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi tham gia xây và chống các biểu hiện suy thoái đạo đức của cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng…
Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và nêu cao danh dự, tự trọng của người đảng viên. Cán bộ, đảng viên phải giữ đời tư chính trực, trong sáng, không tự kiêu, tự đại... Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý phải loại bỏ thói tham vọng chức quyền, “tư duy nhiệm kỳ”, chạy theo danh lợi, địa vị, quyền hành, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt của công, đục khoét của Nhà nước và nhân dân.
Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới và truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc để làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện, tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày.
Thứ ba, nêu cao chủ nghĩa nhân văn, sống có nghĩa, có tình, có trách nhiệm.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng chính là “kim chỉ nam” hữu hiệu trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về đạo đức hiện nay. Việc xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay xuất phát từ những yêu cầu đặt ra từ thực tiễn. Đây tuy là một việc làm khó khăn, nhiều thách thức nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng chính là nền tảng tư tưởng, lý luận quan trọng để Đảng ta kế thừa và phát huy cho phù hợp với thực tiễn hiện nay. Đó chính là cách kiên định, vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. |
Cán bộ phải có lòng tin vào nhân dân, coi “dân là gốc”. Với tinh thần: “Nước lấy dân làm gốc”. “Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”(10). Ngoài ra, cán bộ phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, giúp nhau tiến bộ. Muốn vậy, phải tự phê bình và phê bình chân thành, thường xuyên, nghiêm chỉnh, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ.
Giữ vững tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi; thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế./.
GS.TS. Lê Văn Lợi
Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(1) (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2015, t.9, tr.354, 518.
(2) (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr.292, 502.
(3) (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr.603, 612.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr.613.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr.16.
(8) (9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr 74-75, 91-92.